Prá xay tước ooy pr’hát âng manuýh Êđê nắc prá xay tước ooy pr’hát Kưt lâng Eirei. Ha dang cơnh hát K’ưt ga mắc bhứah, bấc cơnh, cắh ghít xa nul grâm, ch’liêng, xay moon ghít ooy cr’noọ cr’niêng la lay, nắc eirei nắc pr’hát bhui har, nắc đợ rau prá xay lâng bấc cơnh tr’coọ xa nul.
Tơợ bấc lang n’nây, hát eirei nắc dưr váih bh’rợ sinh hoạt văn hoá âng manuýh Êđê cóh Tây Nguyên. Eirei vêy xa naul pr’hay, l’thai, buôn ng’hát lâng bấc ngai. Hát eirei vêy ta bhrợ p’cắh bấc cơnh lâng p’rá xa nay pr’véch bhrợ t’váih bhr’ươl n’jứah cơnh thơ n’jưah cơnh pr’hát xa nul. Cóh rau boóp p’rá n’nắc, pazêng n’juông pr’hát nắc pr’têết đh’rứah. L’lăm ahay, pr’hat eirei vêy ta hát cóh pazêng rau bh’rợ bhui har âng manuýh Êđê; bêl hat lơi abhuy nắc dzợ vêy tr’coọ xa nul rau đêếc nắc xa nul ken đinh năm. Cóh t’tun n’nâu, văn nghệ quần chúng ta đang moon đươi pazêng rau tr’coọ xa nul bêl kứt cắh cậ eirei, tu cơnh đêếc bêl hát kứt nắc vêy buôt- chok, ha dzợ hát eirei nắc dzợ vêy xa nul âng kèn đinh năm cắh cậ manuýh ting hát bhr’ươl t’tun. Manuýh g’lăng z’hai Aê Tuôr, ắt cóh cr’noon Drai Hling, chr’val Hoà Xuân, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắc prá: “Xoọc đâu vêy bấc manuýh hát eirei nắc dzợ vêy manuýh plong ken đinh năm. Cóh bêl ahay công vêy bấc manuýh hát eirei doọ ng’plong đinh năm. Nắc đhiệp hát đợ pr’hát pr’véch. Cơnh ahêê hát cắh vêy tr’coọ xa nul. Xơợng cắh lấh pr’hay. Bêl vêy ng’plong kèn đinh năm nắc pr’hay lấh mơ, zư bhr’ươl pr’hát liêm pr’hay lấh mơ, vêy bhr’ươl pr’hát, vêy xa nul kèn đinh năm lướt đh’rứah lâng cr’liêng pr’hát. Crêê cơnh ahêê piáh n’jưl đoọng ha manuýh hát nắc ng’piáh crêê lâng rau bhr’ươl pr’hát âng pr’hát cơnh đêếc ng’xơợng pr’hay pa bhlâng…”
Bấc bhlâng cóh pr’hát eirei âng manuýh Êđê nắc ng’ba boóch. Vêy pêê rau eirei ba boÓch, nắc ng’ba boóch, ba boóch haanh déh pr’ắt tr’mông la liêm pr’hay, pa choom k’coon ch’chau… lâng rau pêê nắc hát pa đhớch.
Rau chr’nắp bhlâng cóh eirei nắc cắh muy hát ba boóch đh’rứah âng pân juýh pân đil, nắc dzợ vêy pân juýh hát đh’rứah lâng pân juýh, cắh cậ pân đil hát đh’rứah lâng pân đil. Cơnh đêếc nắc ngoọ cơnh bh’rợ bơr tơợ pa prá. Ting cơnh manuýh g’lăng z’hai Aduôn Nhuăn, ắt cóh chr’val Ea Tul, chr’hoong Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk, hát eirei, chr’nắp bhlâng nắc eirei ba boóch k’đháp pa bhlâng, cắh vêy ngai công choom hát. Nắc đợ manuýh vêy a bhô pa choom đoọng n’năl cơnh prá pr’véch nắc vêy choom hát. Apêê đoo nắc n’năl cơnh bhr’ươl pr’hát, đơớh vêy cr’noọ, nắc n’năl bấc rau p’rá xay nay vêy pr’véch, bấc cơnh đoọng choom prá xay đơớh. Manuýh g’lăng z’hai Aduôn Nhuăn prá: “Cóh cr’noon cha c’moo ộm c’xêê, bhuốih t’rí, c’roóc cắh cậ bêl lơi a bhuy nắc manuýh t’coóh t’ha hát kứt, ha dzợ apêê pân juýh pân đil nắc ộm buáh, bêl k’nặ bol ặ nắc plong kèn đinh năm, hát eirei. Hát pr’véch ooy manuýh n’nâu, manuýh n’tốh. Bêl ađoo pân đil kiêng a đoo pân juýh nắc hát ooy manuýh n’nắc, lâng xang n’nắc ađoo pân juýh hát cớ đoọng ta ơơi pa chô rau ta moóh âng ađoo pân đil. Công vêy đợ apêê pân juýh pân đil tr’pay tơợ bh’rợ hát pr’hát eirei đh’rứah.”
Đh’rứah lâng rau ba boóch, eirei công nắc choom hát muy a đay. Xoọc đêếc, eirei xay p’cắh rau cr’noỌ la lay, manuýh hát nắc xay p’cắh cr’noọ cr’niêng hay pa bhlâng, bhui har, haanh déh pr’ắt tr’mông pr’loọng đong, pr’zớc, rau chắp hơnh k’tiếc k’ruung, cắh cậ đợ boóp p’rá p’too pa choom âng k’conh k’căn đoọng ha k’coon ch’chau… bhr’ươl âng eirei nắc dzợ ta zư cơnh ty, nắc cr’liêng pr’hát âng muy cha nắc, muy zr’lụ nắc vêy cơnh choom la lay, lâng rau đêếc nắc rau xay p’cắh t’béch g’lăng âng la lay muy cha nắc manuýh.
L’lăm ahay, eirei buôn vêy ta hát cóh ha rêê đhuốch, cóh bh’rơ lơi ping xal, cắh cậ cóh bh’rợ lơi a bhuy chô ooy ch’nang đác âng a bhướp a dếch. Pr’loọng đong Aê Khon, ắt cóh cr’noon Ea Dho, chr’val Cư Pơng, chr’hoong Krông Buk, tỉnh Đắk Lắk prá: “L’lăm ahay, bêl lơi abhuy cóh cr’noon nắc vêy hát eirei. Hát eirei nắc vêy manuýh plong đinh năm. Zập ngai tr’lum đhị đong âng manuýh cắh dzợ, đh’rứah hát eirei prá xay, xay truíh ooy lang âng ađoo lấh cắh dzợ.”
Hát eirei cóh bh’rợ lơi a bhuy nắc đoọng tr’pác têy lâng manuýh cắh dzợ, pa hêl loom manuýh dzợ mamông. Ting cơnh cr’noọ xa nay âng manuýh Êđê, hát eirei cóh bh’rợ lơi a bhuy vêy chr’nắp nắc pa dưr rau dưr váih, rau dưr cóh lang ha y âng manuýh lấh chêết.
Xoọc đâu, tu xa nay xay bhrợ ha bh’rợ du lịch lâng ting ắt đh’rứah, đhanuôr nắc choom hát eirei cóh zập đhị, zập bêl. Lâng rau bhr’ươl pr’hay bhui har, eirei nắc đơớh vêy ta hát cóh bh’rợ nhăn k’điêl, cóh bhiệc bhan pay k’diíc k’điêl, lâng pazêng t’ngay bhiệc bhan âng bhươl cr’noon…. Bhr’ươl pr’hát chr’nắp pr’hay âng eirei nắc pr’đươi bấc apêê nhạc sĩ đươi dua đoọng xrặ đợ pr’hát tr’haanh ooy Đắk Lắk, Tây Nguyên, cơnh: “Còn thương nhau về Buôn Ma Thuột” “H’zen lên rẫy”…
Hân đhơ cơnh đêếc, công cơnh sử thi, hát kứt, chiing goong…, hát Eirei âng manuýh Êđê xoọc ắt đhị đhr’năng dưr bil tu cắh vêy ngai pa têết pa choom. Ting cơnh nhạc sỹ, manuýh pa chắp ch’mêết lêy ooy văn hoá ty đanh Linh Nga Niê Kdăm, bh’rợ zư lêy, pa choom hát eirei k’đháp pa bhlâng, tu cắh vêy zr’lụ đoọng hát, đợ apêê g’lăng z’hai m’bứi lấh mơ, ha dzợ lâng manuýh kiêng hát eirei công m’bứi. Eirei nắc muy pr’hát ting cơnh bh’rợ pr’choom cóh c’lâng boóp. Tước nâu cơy, nắc đhiệp mơ 2 bài “Ơ hoh Cơ Ju” lâng “ Buôn Dur Kmăn” vêy ta pa chô ooy cr’liêng p’rá aduôn. Nhạc sỹ Lanh Nga Niê Kdăm prá: “Cóh ahay đhị bhươl cr’noon vêy bh’rợ toọm ting cơnh j’niêng lâng cr’liêng xa nay pr’véch. Lấh ooy bh’rợ toom, apêê đoo tr’lum prá xay lâng pr’hát kưt, hát eirei… Pazêng bh’rợ n’nắc nâu cơy cắh dzợ vêy. Nắc vêy bhiệc bhan, vêy bh’rợ bhui har đoọng ba boóch, p’cắh t’béch g’lăng, pr’đhớch… nắc nâu cơy cắh vêy đhị đoọng hát, cắh vêy manuýh pa choom… đhr’năng dưr bil bấc pa bhlâng.”
Pr’ắt tr’mông t’mêê bhrợ t’váih rau k’rang t’bhlâng xay bhrợ, kiêng pa bhlâng vêy đợ rau prá xay đươi dua tơợ bh’rợ pr’hát bấc cơnh, bhrợ pa liêm pr’hay lấh mơ pr’ắt tr’mông tinh thần âng manuýh Êđê. Ha dzợ pazêng rau t’ruíh lâng tr’coọ xa nul- hát eirei- vêy ta pêết bhrợ hay cắh, nắc đươi dua bấc ooy manuýh Êđê, c’la âng bh’rợ hát pr’véch pr’hay pr’méh bhrợ ha manuýh xơợng kiêng pa bhlâng xơợng./.
HÁT EIREI – TRÒ CHUYỆN
BẰNG ÂM NHẠC CỦA NGƯỜI ÊĐÊ
PV Zawut
Nói đến dân ca của người Êđê là nói đến hát Kưt và Eirei. Nếu như hát K’ưt mênh mông, dàn trải, không có tiết tấu rõ ràng, mang nặng tính tự sự, tâm tình, thì eirei là điệu hát với tiết tấu vui tươi, rộn ràng, là những cuộc trò chuyện bằng nhạc sinh động.
Từ bao đời nay, hát eirei đã trở thành sinh hoạt văn hoá cộng đồng người Êđê ở Tây Nguyên. Eirei có nhịp điệu sôi nổi, thoải mái, thường hát ở nơi tụ tập đông người. Hát eirei được thể hiện sinh động bằng lời nói vần (klei duê) tạo nên nhịp điệu vừa có chất thơ vừa có chất nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, các câu hát như những móc xích nối với nhau. Trước đây, điệu eirei được hát trong bất cứ cuộc vui nào của người Êđê; chỉ khi hát trong đám ma thì mới có nhạc đệm là kèn đinh năm. Sau này, văn nghệ quần chúng khuyến khích các nhạc cụ đệm khi kưt hoặc eirei, nên khi hát kưt thì có buôt-chok, còn hát eirei thường kết hợp với tiếng kèn đinh năm hoặc có người hát bè. Nghệ nhân Aê Tuôr, ở buôn Drai Hling, xã Hoà Xuân, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Dak Lak, cho biết: “Hiện nay có nhiều người hát eirei phải có người đệm đinh năm. Nhưng ngày xưa cũng có nhiều người hát eirei không cần đệm đinh năm. Chỉ hát những lời nói vần. Giống như ta hát chay vậy. Nghe không hài hoà, sinh động. Khi đệm kèn đinh năm thì sẽ hay hơn, giữ nhịp hát hài hoà hơn, có phần hát, và phần thổi kèn đinh năm đệm cho lời hát. Giống như khi ta đệm đàn cho người hát phải đệm đúng gam nhạc của bài hát thì nghe mới hay …”
Phần lớn trong điệu hát eirei của người Ê-đê là hát đối đáp. Có ba loại eirei đối đáp, là hát đối đáp giao duyên; hát đối đáp ca ngợi vẻ đẹp trong cuộc sống, răn dạy con cháu…; và thứ ba là hát đố.
Điểm đặt biệt ở eirei là không chỉ có hát đối đáp nam nữ, mà còn có thể là nam hát đối với nam, hoặc nữ hát đối với nhau. Điều này giống như một cuộc đối thoại bằng nhạc giữa hai người. Theo Nghệ nhân Aduôn Nhuăn, ở xã Ea Tul, huyện Cư Mgar, tỉnh Dak Lak, hát eirei, đặc biệt là eirei đối đáp rất khó, không phải ai cũng hát được. Chỉ có những người được Yang (thần) cho biết duê (gieo lời nói vần) thì mới hát được. Họ phải biết nhịp điệu, nhanh ý, phải thuộc nhiều câu nói có vần, giàu hình ảnh để có thể ứng đối thật nhanh. Nghệ nhân Aduôn Nhuăn cho biết: “Trong buôn ăn năm uống tháng, cúng con trâu, con bò hoặc trong đám chết thì người lớn tuổi hát kưt còn những đôi nam nữ cùng nhau uống rượu cần, khi đã ngà ngà say thì thổi kèn đinh năm, hát eirei. Hát gieo vần về người này, người kia. Khi cô gái để ý chàng trai nào đó thì hát về người đó, và sau đó chàng trai sẽ hát ứng đối trả lời những câu gieo vần của cô gái. Cũng có những đôi nam nữ thành vợ chồng qua những buổi hát eirei với nhau.”
Cùng với hát đối đáp, eirei cũng có thể hát một mình. Khi đó, eirei mang tính tự sự rõ nét, người hát bày tỏ tâm tư sầu nhớ, niềm vui, ca ngợi tình cảm gia đình, tình bạn, tình yêu quê hương, hoặc lời dặn dò của cha ông đối với con cháu... Giai điệu eirei thì vẫn được giữ nguyên, nhưng lời hát của mỗi người, mỗi vùng thì có thể khác nhau, vì đó là sản phẩm sáng tạo của riêng mỗi người.
Trước đây, eirei thường được hát trên đường lên nương rẫy, trong Lễ bỏ mả hoặc trong tang lễ tiễn đưa người chết về với bến nước ông bà. Gìa làng Aê Khon, ở buôn Ea Dho, xã Cư Pơng, huyện Krông Buk, tỉnh Dak Lak, cho biết: “Trước đây, khi có đám chết trong buôn thì mới hát eirei. Hát eirei thì có người thổi đinh năm. Mọi người gặp gỡ tại nhà có tang, cùng hát eirei tâm tình, kể về cuộc đời của người đã khuất.”
Hát eirei trong đám tang là để chia tay người chết, an ủi những người còn sống. Theo quan niệm của đồng bào Êđê, hát eirei trong đám tang mang ý nghĩa thúc đẩy sự sinh sôi, sự đầu thai của người chết.
Hiện nay do nhu cầu phục vụ du lịch và hội nhập, bà con có thể hát eirei ở mọi lúc mọi nơi. Với tiết tấu vui tươi, rộn ràng, eirei nhanh chóng được hát trong các đám hỏi, đám cưới, và những ngày hội của buôn làng… Giai điệu, lời hát độc đáo của eirei là chất liệu mà nhiều nhạc sỹ sử dụng để viết nên những bài hát nổi tiếng về Dak Lak, Tây Nguyên, như: “Còn thương nhau về Buôn Ma Thuột”, “H’Zen lên rẫy”…
Tuy vậy, cũng như sử thi, hát kưt, cồng chiêng…, hát Eirei của người Ê-đê đang đứng trước nguy cơ mai một do thiếu người kế cận. Theo nhạc sỹ, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Linh Nga Niê Kdăm, việc bảo tồn, truyền dạy hát eirei rất khó, do thiếu môi trường diễn xướng, số nghệ nhân dân gian thì ngày càng ít, mà người đam mê muốn theo học eirei cũng hiếm hoi. Eirei là lối hát theo kiểu truyền miệng. Đến nay mới chỉ có 2 bài “Ơ hoh Cư Ju” và “Buôn Dur Kmăn” được dịch sang tiếng phổ thông. Nhạc sỹ Linh Nga Niê Kdăm cho biết: “Ngày xưa ở trong buôn có xử phạt theo luật tục bằng lời nói vần. Ngoài việc xử phạt, người ta gặp nhau nói chuyện bằng hát kưt, hát arei… Những hoạt động đó nay không còn. Phải có lễ, có cuộc vui để hát đối đáp, đua tài, đố nhau… nhưng hiện nay thì không có môi trường diễn xướng, không người truyền dạy… nguy cơ mất rất cao.”
Cuộc sống hiện đại cuốn theo những lo toan, rất cần những cuộc đối thoại theo nhạc điệu làm phong phú, làm đẹp thêm đời sống tinh thần của người Ê-đê. Nhưng những câu chuyện bằng nhạc - hát eirei – có được tiếp nối hay không, phụ thuộc vào chính những cộng đồng người Ê-đê, chủ nhân của lối hát vần làm say mê lòng người./.
Viết bình luận