Cung cơnh zâp acoon cóh lơơng ắt mamung cóh zr’lụ Tây Nguyên, acoon cóh Ba Na vêy đợ văn hoá liêm chr’nắp lâng zâp bh’rợ nghệ thuật chr’nắp, ooy đâu chr’nắp liêm lấh mơ nắc zâp râu xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la, dzợ ta moon nắc HơĂMon. Xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na zư lêy bh’rợ chr’nắp liêm ooy đắh p’têết pazưm đhanuôr, nắc đoo a’ngoọn p’têết âng bha’lang k’tiếc lâng acoon manứih lâng tô bhúh, ahay a’hươn lâng xoọc đâu, moon padưr râu cr’noọ cr’niêng âng acoon cóh ooy mưy pr’ắt tr’mung k’bhộ ngăn, hơnh déh loom luônh chắp kiêng, chr’nắp dal, grơơ nhool âng acoon manứih đhị râu zr’nắh k’đhạo âng crâng dading pr’ắt tr’mung bhrợ t’váih lâng ooy đắh zêl cha’groong lâng râu mốp lết.
Xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la âng Ba Na nắc đoo bh’rợ sinh hoạt văn hoá ahay ahươn ting c’lâng lêy hát, đui truíh lâng thơ, văn xuôi, nắc ta’la tranh bhrợ k’tứi, pr’hay chr’nắp ooy pr’ắt tr’mung lang âhy. Hadang cơnh trường ca Dam San, xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la bơơn bấc ngai năl nắc đoo l’lăm lâng bơơn năl bấc bhlâng âng manứih Ê Đê, bơơn ta lêy tơợ đợ c’moo 1930 nắc lêy tước c’moo 1980, xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na vêy bơơn ta năl tước lâng âng đơơng cha’mêết lêy. Giáo sư Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội văn nghệ bh’lêê bh’la Việt Nam đoọng năl: Dợ tước c’moo 1980 nắc azi vêy bơơn lêy nắc vêy xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na. Bêl l’lăm ahay nắc mưy vêy đợ xa’nay t’ruíh bơơn ta xay truíh cớ cơnh râu ty đenh a’năm ha dợ cắh vêy thơ ca. Xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la tr’nơợp azi bơơn lêy nắc Dam Noi. Noi nắc pr’đợc âng mưy manứih anh hùng, Dam nắc đha’đhâm. Xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la n’nắc đợ t’tưn nắc lêy pachô p’rá a’duôn nắc ta moon xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Dam Noi.
Ting cơnh Giáo sư Tô Ngọc Thanh, xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na xay moon ooy pr’ắt tr’mung tơợ bêl tr’nơợp âng đhanuôr lâng đợ g’lúh zêl cha’groong lâng crâng dading đoọng ắt mamung, xay moon đợ râu bhiệc dưr váih tự nhiên lâng xã hội cơnh: râu dưr váih plêệng k’tiếc lâng acoon manứih, g’lúh zêl cha’groong âng đợ acoon manứih, apêê laliêm nắc bơơn thắng apêê mốp lết. Hadang xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la zâp acoon cóh lơơng p’têết pazưm lâng pr’đợc âng đợ apêê anh hùng bh’lêê bh’la âng vel bhươl cơnh Diông, Dư, nắc manứih Ba Na vêy anh hùng Dam Noi. Cr’liêng xa’nay pr’hay chr’nắp ooy pazêng tác phẩm nắc vêy 3 râu bhiệc âng manứih anh hùng nắc bơơn k’điêl, pa bhrợ lâng zêl lêệng a’rập.
Xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na buôn bơơn ta pác bhrợ bấc c’nắt, k’rong pazưm cơ váih mưy xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la liêm chr’nắp. P’rá xa’nay âng xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la nâu nắc xay moon, vêy bấc hình ảnh, xa’nưl, lêy vặ p’cắh ooy bhơi k’tang, a’chim a’đhắh đoọng moon ooy acoon manứih lâng pr’ắt tr’mung âng acoon manứih. Lâng nghệ thuật hát ngâm, đợ c’nắt văn vần, lâng hát prá, nắc đợ c’nắt văn xuôi, zâp nghjê nhân bh’lêê bh’la vêy choom đui truíh đợ xa’nay t’ruíh dal đenh, bấc manứih, bấc râu tu bhiệc pazưm tr’lục. Râu bhrợ têng liêm choom âng manứih đui truíh, hát đợ pr’hát bh’lêê bh’la nắc đoo chr’nắp. Tiến sĩ Lê Thuỳ Ly, chuyên ngành Văn hoá bh’lêê bh’la, Viện lêy cha’mêết văn hoá Việt Nam moon: Apêê nắc manứih năl liêm gít ooy đhanuôr, văn hoá âng acoon cóh đay lâng vêy c’năl hay k’noọ liêm chr’nắp đoọng hát đợ pr’hát t’ruíh bh’lêê bh’la đenh đươnh bấc hi’dưm. Zâp ngai hát, đui truíh liêm pr’hay ting cơnh cr’noọ bh’rợ lâng đhr’năng lalay âng đay, lêy ooy đợ cr’liêng t’ruíh lâng pr’đợc âng xa’nay t’ruíh nâu. Đui truíh đhị không gian p’têết pazưm lâng văn hoá âng đhanuôr cơnh cóh đông gươl, cóh ha’rêê, zâp bhiệc bhan cóh đông cơnh xay xơ, ta’moóh, tập manứih chêết, bhiệc bhan vel bhươl...
Xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la âng manứih Ba Na buôn ta hát đui bêl hi’dưm, nghệ nhân choom hát bếch cặ cậ tớt, manứih xơợng nắc tớt zr’lụ manứih truíh đăn đhị ta’pêếh óih.
Ting cơnh Giáo sư Tô Ngọc Thanh, râu pr’hay chr’nắp âng bhiệc hát, đui xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na lâng zâp acoon cóh lơơng cóh Tây Nguyên nắc âng manứih xơợng lâng manứih đui cắh vêy chấc ta’moóh t’prá, manứih xơợng cắh vêy bơơn lêy manứih đui truíh. Manứih đui nắc doọ vêy chấc bhrợ p’gớt zâp cơnh, mưy prá, hát bêl hi’dưm k’năm cơnh ngoọ bêl lang âhy. Tu Dam Noi nắc xa’nay t’ruíh âng bh’lêê bh’la, bêl xay truíh nắc apêê tin manứih nâu xoọc chô nắc cắh choom bơơn lêy ađoo. Tu nắc c’léh bh’rợ ooy bh’lêê bh’la nắc apêê cắh vêy chấc năl ooy manứih đui t’bếch, dzoọng cắh c tớt, nắc mưy xơơng đh’riêng đh’nui nặc choom ặ. Lâng tơợ ahay a’hươn dưr chr’va đợ xa’nay t’ruíh ooy manứih anh hùng lâng manứih anh hùng n’nắc bơơn zâp ngai hay k’noọ ting cơnh cr’noọ âng đay. Nắc đoo nghệ thuật ha dợ cóh đêếc vêy bh’rợ lêy bhrợ padưr manứih ta đui truíh đoọng manứih xơợng zâp cơnh pr’hay. Râu chr’nắp ma bhưy âng xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na nắc đhị đêếc.
Buôn lêy xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na ta đui truíh 3 r’dưm nắc vêy lứch, cắh choom pa’đhêy lơi tu manứih Ba Na moon tô bhúh, lấh mơ nắc apêê a’bhô dang anh hùng Dam Noi dưr chô bêl hi’dưm, xoọc prá xay lâng acoon a’châu ooy manứih đui truíh. Apêê lướt ooy đâu cắh vêy mưng đương xơợng t’ruíh, tu apêê ơy zêng năl xa’nay t’ruíh, apêê lướt xơợng nắc tin đươi ooy râu prá xay đh’rứah lâng tô bhúh, a’bhô dang. Tước pấh ooy zâp g’lúh hát đui xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la, manứih xơợng cung năl gít ooy pr’ắt tr’mung lâng tinh thần âng aconh a’bhướp, đợ kinh nghiệm mamung, prá xay ắt tớt lâng môi trường tự nhiên lâng xã hội. Hát, đui lâng xơợng đợ xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la cung nặc g’lúh đoọng pa’xoọng râu đoàn kết âng zâp apêê cóh đhanuôr.
Cóh xã hội xoọc đâu, xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na dzợ ặt váih ooy pr’ắt tr’mung đhanuôr cơnh mưy cr’noọ ooy đắh văn hoá, xã hội, chr’ớh lâng nắc đhị băn zư lêy cr’noọ cr’niêng, loom luônh chr’nắp ooy acoon cóh lâng đhanuôr. C’xêê 4/2017, xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la Ba Na nắc ơy bơơn Bộ văn hoá, Thể thao lâng Du lịch moon nắc c’cir văn hoá phi vật thể cấp k’tiếc k’ruung. Ting cr’chăl t’ngay, đợ apêê nghệ nhân đui truíh xa’nay t’ruíh bh’lêê bh’la ting cắh dzợ bấc lâng đợ bhiệc công nhân nhận nâu, c’cir văn hoá liêm chr’nắp âng acoon cóh Ba Na nâu nắc vêy bơơn zư đợc lâng padưr./.
Sử thi Ba Na, nét đẹp trong đời sống
văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên
Ánh Huyền
Cũng như các dân tộc khác sống ở khu vực Tây Nguyên, dân tộc Ba Na có nền văn hóa độc đáo với các loại hình nghệ thuật phong phú, trong đó nổi bật là các thiên sử thi (hay người bản tộc còn gọi là HơĂMon). Sử thi Ba Na giữ vai trò quan trọng trong liên kết cộng đồng, là sợi dây kết nối giữa thế giới con người và tổ tiên, quá khứ với hiện tại, nói lên khát vọng của dân tộc về một cuộc sống hạnh phúc, thịnh vượng, ngợi ca tình yêu, lòng cao thượng, trí dũng con người trước thử thách của thiên nhiên và trong đấu tranh với cái ác.
Sử thi Ba Na là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian truyền khẩu theo lối hát, kể chuyện bằng thơ, văn xuôi, là bức tranh thu nhỏ, sinh động về xã hội xưa. Nếu như trường ca Dam San, sử thi nổi tiếng đầu tiên và được biết đến nhiều nhất của người Ê Đê, được phát hiện từ những năm 1930 thì phải đến tận năm 1980, sử thi Ba Na mới được biết đến và đưa vào nghiên cứu. Giáo sư Tô Ngọc Thanh, Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian Việt Nam, cho biết: "Mãi đến 1980 thì chúng tôi mới phát hiện ra là có sử thi Ba Na. Trước đấy chỉ có những cốt truyện của sử thi được kể lại như cổ tích thôi chứ không phải là thơ ca. Sử thi đầu tiên chúng tôi phát hiện ra là Dam Noi. Noi là tên nhân vật anh hùng, Dam là chàng. Sử thi ấy sau này dịch ra gọi là sử thi Dam Noi".
Theo Giáo sư Tô Ngọc Thanh, sử thi Ba Na phản ánh cuộc sống từ thửa ban sơ của bà con với những cuộc đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn, lý giải những hiện tượng tự nhiên và xã hội như: sự hình thành trời đất và con người, cuộc đấu tranh giữa những tộc người, thiện chiến thắng ác. Nếu sử thi các dân tộc khác gắn liền với tên tuổi những anh hùng thần thoại của buôn làng như Diông, Dư, thì người Ba Na có anh hùng Dam Noi. Nội dung cơ bản xuyên suốt trong tác phẩm bao gồm ba sự kiện của người anh hùng là lấy vợ, lao động và đánh giặc.
Sử thi Ba Na thường được chia thành nhiều khúc, đoạn, hợp lại thành một sử thi hoàn chỉnh. Ngôn ngữ của sử thi mang tính ví von, giàu hình ảnh, nhạc điệu, mượn hình ảnh cây cỏ, chim thú để nói về con người và tâm trạng của con người. Bằng nghệ thuật hát ngâm (những đoạn văn vần) và hát nói (những đoạn văn xuôi), các nghệ nhân dân gian có thể kể những câu chuyện dài, nhiều nhân vật, nhiều sự kiện đan xen. Sự sáng tạo của người kể, hát sử thi đóng vai trò quan trọng. Tiến sĩ Lê Thùy Ly, chuyên ngành Văn hóa dân gian, Viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam, cho rằng: "Họ là người am hiểu sâu sắc về cộng đồng, văn hóa của dân tộc mình và có trí nhớ tuyệt vời để hát kể những câu chuyện sử thi kéo dài nhiều đêm. Mỗi người hát, kể lại thêm thắt, sáng tạo theo tư duy và khả năng riêng của mình, dựa vào những mẫu hình ngôn từ và chủ đề truyền thống chính của cốt truyện. Bối cảnh diễn xướng trong không gian gắn liền với văn hóa của cộng đồng như trong nhà rông, trên rẫy, sau các lễ thức gia đình như cưới hỏi, lễ bỏ mả, nghi lễ cộng đồng…".
Sử thi của người Ba Na thường được hát kể vào ban đêm, nghệ nhân có thể hát nằm hoặc hát ngồi, người nghe ngồi xung quanh nhà bên những đống lửa nhỏ.
Theo Giáo sư Tô Ngọc Thanh, điểm độc đáo của lối hát, kể sử thi Ba Na so với các dân tộc khác ở Tây Nguyên là giữa người nghe và người kể không hề có tiếp xúc, người nghe không nhìn thấy người kể. Người kể không cần diễn, chỉ nói, hát trong bóng tối và trong không gian của bóng tối dường như cả quá khứ đang hiện về. Bởi vì Dam Noi là chuyện của ngày xưa, khi kể chuyện thì người ta tin rằng nhân vật này đang hiện về cho nên không thể thấy bằng mắt thường được. Vì là biểu tượng của quá khứ nên người ta không cần biết người kể nằm, đứng hay ngồi mà chỉ cần nghe giọng thôi. Và từ quá khứ xa xăm ấy vang lên những lời kể về người anh hùng và người anh hùng ấy thì được mỗi người tưởng tượng theo ý mình. Đó là nghệ thuật mà ở đó sức sáng tạo nhân vật trao lại cho từng người nghe chứ không phải theo khuôn mẫu. Cái vĩ đại của sử thi Ba Na là ở chỗ đó.
Thông thường sử thi Ba Na kể 3 đêm mới hết, không được phép dừng ở giữa bởi người Ba Na tin rằng tổ tiên (mà cụ thể là vị thần anh hùng Dam Noi) bay về trong bóng tối, đang giao tiếp với con cháu qua người kể. Người ta đến không phải để nghe một tích mới bởi họ đã thuộc lòng sử thi từ đầu đến cuối, mà họ đến là bởi niềm tin vào sự giao tiếp với tổ tiên, với thần linh. Tham dự vào các buổi hát kể sử thi, người nghe cũng hiểu biết về đời sống vật chất và tinh thần của cha ông, những kinh nghiệm sống, ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Hát, kể và thưởng thức sử thi cũng là dịp để tăng thêm tình đoàn kết của các thành viên trong cộng đồng.
Trong xã hội đương đại, sử thi Ba Na vẫn đang tồn tại trong đời sống cộng đồng như một nhu cầu về văn hóa, xã hội, giải trí và là môi trường nuôi dưỡng ý thức, tình cảm, ý thức về dân tộc và sự cố kết của cộng đồng. Tháng 4/2017, sử thi Ba Na đã chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Theo thời gian, số lượng nghệ nhân kể sử thi ngày càng hiếm và bằng việc công nhận này, di sản văn hóa độc đáo của dân tộc Ba Na này chắc chắn tiếp tục được gìn giữ và phát huy./.
Viết bình luận