LOOM LUÔNH ÂNG APÊÊ THẦY CÔ COH ZR’LỤ HR’CÂH HA VOOH
Thứ tư, 15:32, 19/11/2025 Minh Hoa-Kim Thu/VOV-Miền Trung Minh Hoa-Kim Thu/VOV-Miền Trung
T’ngay Nhà giáo Việt Nam c’moo đâu, apêê thầy cô coh zr’lụ k’noong k’tiêc thành phố Đà Nẵng xoọc ăt zâng lâng bâc râu zr’năh k’đhạp tu boo tuh, hr’câh ha vooh ăt dưr vaih k’rơ bâc.

Zr’năh k’đhạp, k’rang k’pân cơnh đêếc, ha dợ apêê cung dzợ p’zay lêy k’đhơợng pa choom apêê học trò, ha cơnh đoọng cr’liêng chữ doọ choom crêê ga bung, ta coọng p’loong.

 

 

Năc đoo xa nưl ga hô ga hăm hr’câh ha vooh k’tiêc coh vêêl Pứt, chr’val k’coong ch’ngai k’noong k’tiêc Hùng Sơn bhrợ 3 cha nặc bil tic. K’tiêc đhêl tơợ da ding chô lâu ha tộ cơnh tọm đac, ta coọng p’loong lâng ga bung zêng râu. Hr’câh ha vooh k’tiêc nâu ơy ta luôn vaih coh k’coong ch’ngai, ha dợ g’luh nâu năc ngân k’rơ lâh mơ.

Thầy giáo Cơlâu Nghiếu, trường PTDT bán trú Tiểu học Tr’hy hay k’noọ cớ bêl a’đay k’noọ chêêt bil xoọc bêl mưy chu chô ooy vêêl k’đươi moon học sinh. C’moo n’năc ahay, xang bêl boo ngân đenh, bâc học sinh căh pân lươt học. K’rang apêê học sinh căh mặ ta pưn ting cơnh chương trình, thầy Nghiếu lươt dzung, zi lâh truih c’lâng j’đac văng, ma lụ laạch, k’tiêc đhêl đoọng chô ooy vêêl A Riêu (ch’ngai tơợ trường mơ 12km) k’đươi moon học sinh lươt học. Xang lâh 3 tiếng lươt dzung, lươt mơ 10 cây số, thầy Nghiếu c’jựch xơợng pr’toh k’rơ tơợ da ding, xang nặc đợ k’tiêc đhêl đăh da ding ha tộ lâu. Pr’đoọng loon dưr mưt năc doọ bil mặt: “Truih c’lâng lươt k’đươi moon học sinh chô học năc lưm bâc zr’năh k’đhạp, c’lâng hr’câh ha vooh bâc đhị, bâc zr’lụ căh choom đơơng xe máy năc lêy lươt dzung k’noọ 8 cây số. Vêy mưy chu xoọc lươt năc hr’câh ha vooh da ding, k’tiêc đhêl ha tộ lâu bâc năc acu lâng bâc ngai ma g’rooh dưr mưt. Hân đhơ zr’năh k’đhạp cơnh đêêc, mưy chu pr’đoọng doọ chêêt bil năc acu t’bhlâng lươt k’đươi moon học sinh tươc ooy lớp đoọng apêê a’đhi học liêm zâp”.

Năc mưy manưih Cơ Tu, n’niên vaih, dưr ga măc liêm coh zr’lụ k’coong ch’ngai, k’noong k’tiêc, lâh mơ ngai, thầy Nghiếu năl ghit râu đha rưt, zr’năh âng đhanuôr coh vêêl. Thầy cung năl ghit, đoọng coh k’coong ch’ngai dưr zi lâh đha rưt năc l’lăm lêy zooi đoọng zâp ngai năl chữ đoọng năl cơnh bhrợ cha. 11 c’moo ăt pa bhrợ coh giáo dục zr’lụ k’noong k’tiêc, thầy Nghiếu căh dzợ mặ hay ha mơ chu lơi jợ xe truih c’lâng đoọng lươt dzang zi lâh tọm, crâng k’coong đoọng k’đươi moon, âng đơơng học sinh chô học. Đợ c’moo đăn đâu, boo tuh zâp cơnh, hr’câh ha vooh da ding ting bâc k’rơ lâh, c’lâng tước ooy trường âng thầy trò coh k’coong ch’ngai ting zr’năh k’đhạp, k’rang k’pân lâh mơ. Hân đhơ cơnh đêêc, lâng râu chăp kiêng bh’rợ tr’nêng, k’er apêê p’niên, thầy Nghiếu dzợ ta luôn âng đơơng, k’đươi moon học sinh tươc ooy lớp, ting cơnh thầy, nâu đoo năc c’lâng đoọng k’đhơợng zư apêê a’đhi. Thầy giáo Lưu Hoàng Thương moon: “Thầy Nghiếu lươt tơợ 6 giờ ra diu tươc 10 giờ đhâng vêy tươc, lươt dzung zi lâh bâc đhị hr’câh ha vooh, ooy zâp coh video lâng c’leh cha nụp âng thầy đoọng ooy nhà trường lêy năc k’rang k’pân bhlâng. Zâp đhị c’năt c’lâng ma cr’đooh c’câh, căh năl ha bêl lâu ha tộ. Hân đhơ cơnh đêêc, tu apêê học sinh, thầy Nghiếu lâng zâp apêê thầy cô cung dzợ ta luôn t’bhlâng k’đươi moon học sinh đoọng zâp apêê a’đhi học liêm choom”.

Cô giáo Huỳnh Thị Yên (vêêl đông coh thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam ty) tốt nghiệp ngành Sư phạm c’moo 2014. Gluh đăh trường, cô giáo p’niên zươc moon lươt pa bhrợ ooy khu 7 (chr’hoong Tây Giang ty, xoọc đâu năc chr’val Hùng Sơn). Bêl đêêc, coh đâu căh râu vaih, c’lâng c’tôch j’đâc lươt vôch zr’năh k’đhạp, “căh vaih điện, căh vaih đac”. Bâc hi dưm, ăt bêch xơợng đhí lâng bâc râu ma xưl, cô Yên căh ha mơ choom bêch, ặt hay đông lâh mơ. Hân đhơ cơnh đêêc, lêy đợ apêê học sinh lâng đợ xa nập tr’têêc nha nhự, căh ma pr’nơng, căh vaih dép lươt dzung ch’ngai bha dăh đoọng tươc ooy lớp bêl plêệng cha cêết ra ngooh hân noo ha ọt coh k’coong ch’ngai, năc ting bhrợ đoọng ha cô nha nhêr apêê bâc lâh mơ. Đợ p’rá cr’chăng liêm ta nih âng apêê học trò năc bhrợ pr’đơợ đoọng ha cô ting ăt bhrợ pa choom coh zr’lụ k’coong ch’ngai nâu lâh 11 c’moo hanua: “Bêl t’mêê lươt ooy đâu năc mưy năl coh đâu da ding k’coong, căh vêy k’noọ ch’ngai mơ đâu. Hân noo boo tuh hr’câh ha vooh năc lêy cha p’riêng a’xiu. Ha dợ bhiệc k’đươi moon học sinh cung lưm bâc zr’năh k’đhạp. Azi buôn lươt lâng xe máy, ha đhị căh choom lươt năc lươt dzung đoọng moot coh vêêl, lươt chô toong t’ngay. Học sinh căh kiêng học năc lươt mưt ăt coh pợ ha rêê, lươt châc coh đông căh bơơn lêy năc ting ta pưn tươc ha rêê đoọng k’đươi moon apêê chô học. Xọoc đâu acu dạy coh đâu 11 c’moo ơy, ơy bơơn k’diịc coh đâu năc lêy ăt dạy coh đâu”.

Chr’val k’noong k’tiêc Hùng Sơn vêy 41 đhị trường lâng 82 lớp học lâng k’noọ 1.700 học sinh zâp cấp, bâc nặc học sinh Cơ Tu pr’ăt tr’mung zr’năh k’đhạp. Lâh mơ, c’lâng c’tôch chô ooy zâp vêêl đông k’coong ch’ngai dzợ vêy bâc râu zr’năh k’đhạp. Bêl hân noo boo đhí, hr’câh ha vooh, bâc apêê a’đhi kiêng lơi học đoọng ặt coh đông zooi k’conh k’căn lươt ha rêê. Hân đhơ cơnh đêêc, râu k’rang lêy p’too moon, ting tr’pac đh’rưah âng apêê thầy cô, bâc apêê a’đhi ơy mặ dưr zi lâh zr’năh k’đhạp đoọng t’bhlâng pa choom pa dưr c’năl bh’riêl. A’đhi Cơlâu Thị Huyền, học sinh trường PTDT bán trú Tiểu học Tr’hy xay moon chăp hơnh lâng apêê thầy cô giáo âng đay: “Thầy cô coh đâu liêm ta nih, k’rang zư lêy azi. Bêl hân noo boo hr’câh apêê thầy cô cung lươt tươc đông k’đươi moon azi lươt học. Apêê pr’zợc coh ch’ngai năc vêy apêê thầy cô chô tươc đông âng đơơng chô ooy lớp đoọng học liêm zâp. Thầy cô dạy azi bâc râu đoọng azi dưr liêm, bhriêl ta bach. Lâh mơ, bâc apêê pr’zợc lưm zr’năh k’đhạp buôn lơi học năc apêê thầy cô đoọng xa nập xập, bha ar pa tơ đoọng apêê lươt học”.

T’cooh Nguyễn An, Bí thư Đảng uỷ chr’val Hùng Sơn đoọng năl, coh vêêl đông vêy 175 giáo viên, ooy đâu vêy 23 cha nặc tơợ đồng bằng. Hân đhơ giáo viên coh đâu căh cậ coh lơơng, zâp ngai zêng vêy mưy cơnh pr’ăt tr’mung, zr’năh k’đhạp, hân đhơ cơnh đêêc apêê thầy cô zêng vêy mưy râu cr’noọ bh’rợ zr’nưm năc chăp kiêng bh’rợ tr’nêng, nha nhêr apêê p’niên, doọ châc k’rang k’pân râu zr’năh k’đhạp đoọng âng đơơng cr’liêng chữ chô tươc ooy đợ vêêl bhươl ch’ngai bha dăh:“Lâng năc mưy chr’val k’coong ch’ngai k’noong k’tiêc, zr’lụ đhanuôr acoon coh pa bhlâng zr’năh k’đhạp năc zâp giáov viên ơy pa dưr liêm choom lưch mơ trách nhiệm âng mưy manưih thầy giáo. Lâh mơ bhiệc dạy học năc thầy cô coh k’coong ch’ngai nâu cơnh mưy cha nặc k’căn, k’rang lêy đoọng ha pêê a’châu tơợ bhiệc ặt cha, lâh mơ năc apêê a’châu coh nội trú. Thầy cô cung chrooi pa xoọng đh’rưah lâng vêêl đông bhrợ liêm choom zâp bh’rợ xã hội lơơng. Pa đhang moon cơnh bêl hân noo boo c’moo đâu, thầy cô ting pâh zêệ ch’na cha, k’rang lêy đoọng ha pêê đhanuôr đhị zr’lụ hr’câh ha vooh bêl tơơi mưt, ting lêy bhrợ pa liêm đhị trường lớp, c’lâng c’tôch. Acu chăp hơnh đăh trách nhiệm, bh’rợ âng apêê giáo viên coh vêêl đông chr’val Hùng Sơn”.

Đợ c’moo đăn đâu, giáo dục coh zr’lụ k’coong ch’ngai thành phố Đà Nẵng ting bhr’dzang pa dưr liêm choom, bhrợ bâc pr’đơợ học tập đoọng ha coon a’đhi manưih acoon coh. Đợ râu liêm choom nâu năc vêy râu lêy bhrợ, chrooi đoọng âng zâp apêê thầy cô ăt pa bhrợ coh vêêl đông ch’ngai cơnh thầy Nghiếu, cô Yên lâng bâc thầy cô lơơng.

Bhrợ têng cr’noọ bh’rợ pa đệ bhlưa đăh giáo dục coh da ding k’coong lâng zr’lụ clung đệ, t’mêê đâu, đh’rưah lâng prang k’tiêc k’ruung, thành phố Đà Nẵng zêng lêy bhrợ pa dưr 6 trường học coh k’coong ch’ngai k’noong k’tiêc. Xang bêl đợ đhr’nông trường nâu t’moot đươi, căh mưy chrooi pa xoọng bhrợ pa dưr liêm dal giáo dục zâp prang ha học sinh, năc dzợ bhrợ pa dưr pa liêm pr’đơợ giảng dạy, ăt ma mung ha zâp apêê thầy cô giáo coh k’coong ch’ngai. T’cooh Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng đoọng năl: “Coh 6 trường, zâp trường đhị zâp vêêl đông vêy cơnh lalay đăh văn hoá, pr’đơợ k’tiêc k’bunh, j’niêng bh’rợ lâng đợ râu bhiệc lơơng. Râu 2, trường âng hêê ta moon năc trường coh da ding k’coong, k’noong k’tiêc nội trú lâng bán trú. Râu 3, ooy đăh lêy đươi dua năc lêy cha mêêt tươc ooy đông công vụ ha thầy cô giáo, đợ apêê căh ơy vaih đông ặt coh đâu”./.

TẤM LÒNG THẦY CÔ VÙNG SẠT LỞ

Ngày Nhà giáo Việt Nam năm nay, các thầy, các cô nơi vùng cao biên giới thành phố Đà Nẵng đang phải đối mặt với muôn vàn gian khó do bão, lũ sạt lở bủa vây. Khó khăn, hiểm nguy là vậy họ vẫn miệt mài giữ chân học trò, không để con chữ bị vùi lấp, cuốn trôi.  

 

 

Đây là âm thanh vụ lở núi xảy ra ở thôn Pứt, xã vùng cao biên giới Hùng Sơn làm 3 người mất tích. Đất đá từ núi cao cuồn cuộn chảy xuống như dòng thác, cuốn theo và vùi lấp tất cả. Sạt lở đất không phải là điều lạ ở vùng cao nhưng lần này thật khủng khiếp.

Thầy giáo Cơlâu Nghiếu, trường PTDT bán trú Tiểu học Tr’hy nhớ lại lần mình chết hụt trong chuyến về thôn vận động học sinh. Năm ngoái, cũng sau đợt mưa lớn kéo dài, nhiều học sinh e ngại đến lớp. Lo học trò không theo kịp chương trình, thầy Nghiếu lội bộ, vượt núi băng qua những con đường dốc cheo leo, ngập ngụa bùn lầy, đất đá để đến thôn A Riêu (nơi cách trường 12 km) vận động học sinh ra lớp. Sau hơn 3 giờ lội bộ, đi được chừng 10 cây số, thầy Nghiếu bất ngờ nghe tiếng nổ lớn phát ra từ ngọn núi bên đường, cùng lúc đất đá từ trên núi cao đổ xuống. Cũng may nhờ chạy kịp mà thầy đã thoát chết trong gang tấc:“Trên đường đi vận động học sinh ra lớp thì tôi gặp rất nhiều khó khăn, đường bị sạt lở nhiều chỗ, nhiều đoạn không thể đem xe máy qua nên phải đi bộ gần 8 cây số. Có một lần đang đi thì sạt lở núi, đất đá đổ xuống nhiều nên tôi và nhiều người la hét bỏ chạy. Cho dù là khó khăn như thế, một lần thoát chết nhưng tôi vẫn quyết tâm đi vận động học sinh ra lớp để các em đi học đầy đủ”.

Là người con Cơ Tu, sinh ra, trưởng thành nơi vùng cao biên giới, hơn ai hết thầy Nghiếu thấu hiểu cái nghèo, cái khó của bà con dân làng mình. Thầy cũng hiểu, để vùng cao thoát nghèo, trước tiên phải giúp mọi người có cái chữ để biết cách làm ăn. 11 năm gắn bó với giáo dục vùng biên, thầy Nghiếu không nhớ nổi mình đã bao nhiêu lần bỏ xe giữa đường để vượt suối, băng rừng, lội bộ qua những dốc núi cheo leo, để vận động, đưa đón học sinh đi học. Những năm gần đây, mưa lũ bất thường, sạt lở núi ngày càng khốc liệt, con đường tới trường của thầy trò vùng cao càng thêm khó khăn, nguy hiểm. Thế nhưng, với tình yêu nghề, mến trẻ, thầy Nghiêu vẫn thường xuyên đưa đón, vận động học sinh ra lớp, bởi theo thầy, đó là cách duy nhất để giữ chân các em. Thầy giáo Lưu Hoàng Thương chia sẻ:“Thầy Nghiếu đi từ 6 giờ sáng đến 10 giờ trưa mới đến nơi, đi bộ qua rất nhiều điểm sạt lở, qua các video và hình ảnh thầy gửi về cho nhà trường thì thấy rất nguy hiểm. Các đoạn đường bị nứt, gãy và không biết tụt đất xuống lúc nào. Dù vậy, vì học sinh, thầy Nghiếu và các thầy cô vẫn luôn cố gắng vận động học sinh để các em học tốt”.

Cô giáo Huỳnh Thị Yên (quê thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam cũ) tốt nghiệp ngành Sư phạm năm 2014. Ra trường, cô giáo trẻ tình nguyện lên khu 7 (huyện Tây Giang cũ, giờ là xã Hùng Sơn). Khi ấy, nơi đây còn khá hoang sơ với bao dốc đá, suối ghềnh, “không điện, không nước”. Nhiều đêm, nằm nghe gió rít liên hồi qua phên cửa cùng tiếng côn trùng rả rích, cô Yên không sao chợp mắt, nỗi nhớ nhà lại càng thêm cồn cào, da diết. Thế nhưng thấy cảnh những cô, cậu học trò với tấm áo mỏng manh, đầu trần, chân đất lội bộ hàng giờ đến lớp giữa cái lạnh tê giữa mùa đông vùng cao khiến cô cảm thấy yêu thương các em nhiều hơn. Chính nụ cười hồn nhiên, trong sáng của học trò đã tiếp thêm động lực để cô gắn bó với vùng cao này suốt 11 năm qua.“Lúc lên đây thì chỉ biết là miền núi thôi chứ không nghĩ xa như vậy. Mùa mưa bão sạt lở thì phải ăn cá khô. Còn việc vận động học sinh thì cũng gặp nhiều khó khăn. Thường tụ em đi xe máy, đoàn nào không đi được xe thì đi bộ vô thôn, đi về có khi cả ngày. Học sinh nhác học là các em trốn lên Zuông, mình tới nhà tìm không có thì mới hỏi rồi đi theo, đi theo để đưa các em về. Em bây giờ dạy ở đây được 11 năm rồi, đã lập gia đình ở đây cho nên em cứ dạy ở đây thôi”.

Xã biên giới Hùng Sơn có 41 điểm trường với 82 lớp học và gần 1.700 học sinh các cấp, đa phần là học sinh Cơ Tu hoàn cảnh khó khăn. Thêm vào đó, hạ tầng giao thông, nhất là đường về các thôn làng vùng sâu, vùng xa còn nhiều trở ngại. Vào mùa mưa bão, sạt lở bủa vây, nhiều em có ý định bỏ học ở nhà phụ giúp bộ mẹ việc nương rẫy. Thế nhưng, nhờ sự quan tâm động viên, sẻ chia của các thầy, các cô, nhiều em đã vượt qua chính mình để tiếp tục đeo đuổi con đường tri thức. Em Cơlâu Thị Huyền, học sinh trường PT DT bán trú Tiểu học Tr’Hy bày tỏ sự biết ơn đối với các thầy cô giáo của mình như thế này:“Thầy cô ở đây rất tận tình chăm sóc bọn con. Mùa sạt lở, thầy cô tận tình đến nhà vận động các con đi học. Mấy bạn ở xa thầy cô đến tận nhà chở đến lớp để không mất chương trình học. Thầy cô dạy chúng tôi rất nhiều thứ để chúng con nên người. Đặc biệt, nhiều bạn khó khăn hay nghỉ học thì thầy cô cho quần áo, sách vở để các bạn đi học”.

 Ông Nguyễn An, Bí thư Đảng ủy xã Hùng Sơn cho biết, trên địa bàn có 175 giáo viên, trong đó 23 người từ đồng bằng lên. Dù là giáo viên miền xuôi hay miền ngược, mỗi người một hoàn cảnh, khó khan nhưng các thầy, các cô đều có chung  niềm đam mê, tình yêu nghề, mến trẻ, không ngại khó, ngại khổ đưa cái chữ đến tận những thôn, nóc xa xôi:“Với đặc thù là một xã vùng cao biên giới, vùng DTTS đặc biệt khó khăn thì các giáo viên đã phát huy hết tinh thần trách nhiệm của một người thầy giáo. Ngoài việc dạy học thì thầy cô ở miền núi giống như cha mẹ hiền, chăm lo cho các cháu từ miếng ăn, giấc ngủ, đặc biệt là các cháu nội trú. Thầy cô cũng góp phần cùng địa phương thực hiện tốt các công tác xã hội khác. Ví dụ như mùa mưa lũ năm nay, thầy cô tham gia nấu ăn, chăm lo cho bà con vùng sạt lở khi di dời, tham gia dọn vệ sinh trường lớp, đường giao thông. Tôi đánh giá rất cao về trách nhiệm, tinh thần của đội ngũ giáo viên trên địa bàn xã Hùng Sơn”.

Những năm gần đây, giáo dục vùng cao thành phố Đà Nẵng từng bước khởi sắc, mở ra nhiều cơ hội học tập cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số. Đằng sau những thành quả ấy là sự cống hiến và sự hy sinh thầm lặng của các thầy cô cắm bản như thầy Nghiêu, cô Yên cùng nhiều thầy cô khác.

Thực hiện mục tiêu thu hẹp khoảng cách về giáo dục giữa miền xuôi với miền ngược, mới đây, cùng với cả nước, thành phố Đà Nẵng đồng loạt khởi công xây dựng 6 trường học ở vùng cao biên giới. Sau khi những ngôi trường này đưa vào sử dụng không chỉ góp phần nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh, mà còn cải thiện đáng kể điều kiện giảng dạy, sinh hoạt cho các thầy cô giáo vùng cao. Ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng cho biết:“Trong 6 trường, mỗi trường ở mỗi địa phương có đặc tính khác nhau về văn hóa vùng miền, điều kiện địa lý, địa hình, phong tục tập quán và những vấn đề khác. Thứ 2, trường của chúng ta định khung là trường ở miền núi, biên giới nội trú và bán trú. Thứ 3, trong công năng sử dụng thì phải tính đến yếu tố nhà công vụ cho thầy cô giáo, những người chưa có nhà cửa ở đây”./.

Minh Hoa-Kim Thu/VOV-Miền Trung

Viết bình luận

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC