Nâu đoo năc tiết học x’rịa tuần âng apêê a đhi học sinh lớp ghép 1/1 lâng 2/1, điểm trường Tắk Pổ, chr’val Trà Tập, chr’hoong Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Cô giáo Trương Thị Hiền ơy ra văng bánh kẹo bhrợ hun pr’hêl đoọng ha học sinh tơợ lâh 1 tuần học tập. Điểm trường Tắk Pổ, chr’val Trà Tập, chr’hoong Nam Trà My ặt coh bôl da ding, crâng ca coong ga ving zêng. Ha bu đăl, mặt t’ngay ơy chô đăh tu da ding Ngọc Linh ha dợ k’zệt p’niên k’tứi cung dzợ ặt lâng cô giáo căh ơy chô ooy đong.
T’ngay c’xêê z’lâh, cô Hiền ơy vêy mặt đhị zr’lụ k’tiếc nâu lâh 10 c’moo. T’ngay tr’nơợp, pân đil c’mor t’mêê gluh đăh trường năc đâc ooy da ding Măc Ổi, vel 3, chr’val Trà Tập, chr’hoong Nam Trà My lâng loom luônh chăp kiêng bh’rợ tr’nêng pa choom học âng cô ơy kiêng tơợ dzợ p’niên k’tứi.
Vêy bêl, cô giáo p’niên xơợng g’lêêh ngoọ đay căh mặ zâng lâng z’lâh k’đhap k’ra. Bấc ha dưm pleng boo priu, cô Hiền lâng apêê cô giáo lơơng ặt bhrợ ch’ngai đong năc tớt rêên tu hay đong, tước đâh ra diu apêê năc z’lâh c’lâng crâng, chang k’ruung tâm tước lớp. Apêê cô tự pa choom prá p’rá Ca Dong, Xê Đăng đoọng pa prá lâng apêê học sinh, aconh a căn học sinh bêl đơơng ca coon lướt học. Lâng pazêng giáo viên cơnh Trương Thị Hiền, rau xơợng ngoọp coh loom đay năc bêl dzoọng coh bục giảng, lêy coh lớp năc ngoọp học sinh: “Bêl đêêc căh vêy internet cơnh nâu kêi, bấc điểm trường dzợ căh vêy sóng điện thoại. Điện thoại âng zi bêl đêêc cung êêh rau smartphone năc điện thoại muy choom xơợng lâng t’đang, tải nhạc t’moọt ooy điện thoại lâng đơơng ooy đâu pa choom đoọng ha học sinh. Lâh mơ apêê tiết học muy prá hơớ căh rau đoọng pr’hay lâh, năc a zi pay điện thoại pa xưl nhạc đoọng ha pêê ađhi xợơng. Học sinh coh đâu kiêng học hát năc đươi bhrợ cơnh đêêc vêy apêê ađhi kiêng tước lớp bấc lâh.”
Đoọng pa choom cr’liêng chữ đhị apêê vel bhươl da ding ca coong, nâu kêi apêê thầy cô giáo căh muy pa đhêy đhị pêê rau đh’rưah bhrợ dzợ năc lêy bhrợ puôn đh’rưah, năc đoo: đh’rưah ặt, đh’rưah cha, đh’rưah bhrợ lâng đh’rưah p’rá prá âng apêê a đhi.
Vel Tắk Pổ, chr’val Trà Tập, chr’hoong Nam Trà My vêy 35 pr’loọng ma nuyh Ca Dong ặt ma mông g’nưm tơợ ha rêê. Ađhi Hồ Mai Vy, học sinh lớp 2/3, điểm trường Tắk Pổ, pr’loọng đong a moó lưm k’đhap đha rựt, zập hân noo bơơn bh’nơơn ha rêê, aconh a căn đơơng ađhi ting lướt ặt coh zơng, ch’ngai tơợ đong ặt, lướt cung m’pâng t’ngay vêy tước. Hân noo pa chô bh’nơơn ha rêê đanh coh bấc tuần, bhrợ bhiệc học âng ađhi Hồ Mai Vy pa đhêy bấc chu. Apêê cô giáo năc lướt z’lâh c’lang ch’ngai tước zơơng đoọng t’pâh, zước tơợ aconh căn đoọng ha đhi Hồ Mai Vy chô ặt đhị điểm trường Tắk Pổ đoọng liêm buôn lướt học. Xang giờ học, apêê cô za zêệ, k’rang a đhi Vy lâng pr’zơc đoo đui cơnh ca coon coh đong. Apêê p’niên da ding ca coong tu cơnh đêêc năc lêy apêê cô giáo đui cơnh ca căn âng đay. Ađhi Hồ Mai Vy xay moon: “Acu kiêng lướt học, tu tước trường acu xơợng bhui. Apêê cô giáo jưah pa choom chữ, jưah k’rang đoọng ha zi bấc rau.”
Rau bhui har bhlầng coh loom âng apêê cô giáo pa choom coh da ding ca coong năc học sinh đay đha nui tr’ut, doọ lơi học. Pazêng t’ngay lễ, tết căh cợ t’ngay Nhà giáo Việt Nam 20-11, pr’hêl âng học sinh da ding ca coong đơc đoọng ha cô giáo năc pazêng t’cruôl pô pêêh pay toor c’lâng, a băng, pa nuôl rơ veh, a tao, prí… Lêy ooy bran mắt apêê học sinh da ding ca coong, bấc cô giáo năc ting pa zay doọ dzợ ngoọ tước bhiệc văl chô ooy xuôi pa bhrợ n’đhơ vêy ta đoọng chô.
Cô giáo Đinh Thị Tươi, Trường PTDT bán trú Tiểu học lâng THCS Phước Lộc, chr’hoong Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam vêy lâh 10 c’moo pa choom học coh đâu. Đhăm k’tiếc da ding ca công bấc rau k’đhap k’ra nâu năc đhị cô Tươi chô bơơn k’diic. Cô Đinh Thị Tươi dzợ hay, g’luh tuh ga măc, hr’lang da ding đhị x’rịa c’moo 2020 hay bhrợ bil mặt âng 4 a đhi học sinh, bấc a đhi dzợ k’tứi, pa nar căh dzợ aconh căn tơợ lâh tu bhiệc cr’pân năc đoo dưr vaih. Cr’chăl đêêc, cô Đinh Thị Tươi xoọc ặt k’đhap, đăn t’ngay n’niên ca coon ha dợ cung pa zay t’pâh, pa ngăn loom apêê a đhi z’lâh ca ay loom tu căh dzợ ma nuyh đong. K’diic cô Tươi năc cán bộ chr’val Phước Lộc, ting pâh trôông dấc đhanuôr coh g’luh hr’lang hr’kâh k’tiếc bêl đêêc. Năc muy bh’rợ bhrợ ha cô Tươi căh choom ha vil:“Lêy học sinh âng đay căh dzợ aconh acăn, lêy k’er pa bhlầng. Azi năc ặt lâng apêê a đhi, pa têệm loom apêê z’lâh rau bil bal năc đoo. Nâu kêi hay cợ, a cu cung xơợng dzợ k’pân. Nâu đoo năc bh’rợ căh choom ha vil, năc xa nay choom xay truih đoọng ha lang coon cu ting năl, ađoo n’niên coh đhr’năng k’đhap zr’năh cơnh ooy. Acu đơc đh’nơc a đoo năc Bùi Đinh Không Quân, pa têệt lâng đh’nơc âng k’bhuh Không quân Việt Nam ơy trôông dấc acoon căn zi z’lâh tơợ zr’lụ hr’lang k’pân năc đoo.”
Tước nâu kêi, hệ thống c’lâng p’rang da ding ca coong tỉnh Quảng Nam tơợ lâh apêê g’luh pleng k’tiếc pa hư, năc cung căh ơy ta bhrợ pa liêm xang. Đọong tệêm ngăn bhiệc học tập doọ choom pa đhêy, aconh căn học sinh lâng thầy cô giáo đhị da ding ca coong bhặ học sinh z’lâh k’ruung, z’lâh pazêng c’nặt c’lâng cr’pân đoọng tước lớp. T’cooh Thái Viết Tường, Giám đốc Sở Giáo dục lâng Đào tạo tỉnh Quảng Nam đoọng năl, pr’đơợ k’đhap k’ra năc cơnh đêêc ha dợ pazêng c’moo hay, đợ học sinh lơi học đhị zr’lụ da ding ca coong tỉnh Quảng Nam ting xiêr, đợ học sinh tốt nghiệp cấp pêê, bơơn Đại học ting bấc. Ting cơnh t’cooh Thái Viết Tường, pazêng bh’nơơn năc đoo vêy chroi k’rong bấc bhlầng âng apêê thầy, cô giáo bấc c’moo ặt pa choom coh da ding ca coong: “Coh pr’đơợ k’đhap k’ra âng giáo dục da ding ca coong, a zi xay moon dal pazêng chroi k’rong âng apêê giáo viên da ding ca coong. Vêy bấc cô giáo pa bhrợ đhị da ding ca coong k’zệt c’moo, lơi ruh đha đhâm c’mor âng đay tu học sinh da ding ca coong. Vêy bấc cô đơc lang c’mor âng đay ặt pa choom tước nâu kêi ha dợ căh vêy bơơn k’diic. A cu chăp bhlầng lâng năl ơn bấc pa bhlầng c’rơ âng apêê thầy cô, pa bhlầng năc apêê cô giáo.”
Coh da ding ca coong, đh’riêng pr’hat âng pazêng p’niên acoon coh ơy pa dưr c’rơ đương rơơm đoọng ha pazêng cô giáo ặt bhrợ coh vel, đhị c’lâng “đơơng cr’liêng chữ”. Tước t’tun, pazêng ruh p’niên năc đoo pậ banh lâng tước đhị liêm tr’ang lâh mơ. Zr’lụ da ding ca coong k’đhap zr’năh năc r’dợ tr’xăl liêm choom đươi vêy pazêng lớp học coh tu da ding t’ngay đâu./.
Những cô giáo cắm bản ở vùng cao
Tại những điểm trường cheo leo trên các bản làng vùng cao tỉnh Quảng Nam, nhiều cô giáo dành cả thanh xuân gắn bó với học sinh miền núi. Cuộc sống ở vùng cao bộn bề gian khó, xa quê, xa gia đình nhưng họ vẫn miệt mài cùng công việc.
Đây là tiết học cuối tuần của các em học sinh lớp ghép 1/1 và 2/1, điểm trường Tắk Pổ, xã Trà Tập, huyện Nam Trà My tỉnh Quảng Nam. Cô giáo Trương Thị Hiền đã chuẩn bị bánh kẹo làm phần thưởng phát cho học sinh sau 1 tuần học tập chăm chỉ. Điểm trường Tắk Pổ, xã Trà Tập, huyện Nam Trà My nằm cheo leo trên đỉnh đồi như một thảo nguyên thu nhỏ, xung quanh là núi non hùng vĩ. Chiều muộn, mặt trời lấp ló đằng xa dãy núi Ngọc Linh, hàng chục em học sinh vẫn quấn quýt bên cô giáo chưa chịu về.
Thời gian thấm thoát trôi, cô Hiền đã có mặt ở vùng đất này hơn 10 năm. Ngày đầu, cô gái trẻ mới ra trường hăm hở vác ba lô lên vùng cao Măng Ổi, thôn 3, xã Trà Tập, huyện Nam Trà My với tâm trạng háo hức theo đuổi nghề dạy học mà cô mơ ước từ nhỏ.
Bước chân cô giáo trẻ có lúc khựng lại tưởng không vượt qua được bởi vô vàn khó khăn. Có những đêm mưa rả rích, Hiền và các giáo viên vừa lên công tác ôm nhau khóc vì nhớ nhà, rồi sáng hôm sau lại băng rừng, lội suối đến lớp. Các cô tự học tiếng Ca Dong, Xê Đăng để giao tiếp với học sinh và vận động phụ huynh đưa con đi học. Với những giáo viên như Trương Thị Hiền, kỷ niệm buồn nhất là mỗi lần đứng trên bục giảng nhìn xuống các dãy bàn ghế trống vắng học sinh: “Lúc đó không có internet như bây giờ đâu, nhiều điểm trường còn không có cả sóng điện thoại. Điện thoại của chúng tôi lúc đó cũng không phải smartphone mà điện thoại chỉ nghe, gọi và tải nhạc thôi nên chúng tôi tải nhạc vào điện thoại và đưa lên đây dạy học sinh. Ngoài những tiết học khô khan thì chúng tôi dùng điện thoại tải nhạc sẵn vào đó để mở cho các em nghe. Học sinh ở đây rất thích học hát nên nhờ cách làm đó mà các em đến lớp nhiều hơn.”
Để ươm mầm con chữ tại các thôn, bản vùng cao, giờ đây các thầy cô giáo không chỉ dừng lại ở ba cùng nữa mà phải thực hiện bốn cùng, đó là: cùng ăn, cùng ở, cùng làm và cùng sử dụng tiếng bản địa với các em.
Nóc Tắk Pổ, xã Trà Tập, huyện Nam Trà My có 35 hộ dân tộc Ca Dong sống nhờ nương rẫy. Em Hồ Mai Vy, học sinh lớp 2/3, điểm trường Tắk Pổ hoàn cảnh gia đình khó khăn, mỗi khi đến mùa thu hoạch, cha mẹ phải dẫn em vào ở lại nhà ruộng, cách nhà cả nửa ngày đi bộ. Mùa thu hoạch kéo dài nhiều tuần liền khiến việc học của Hồ Mai Vy bao lần gián đoạn. Các cô giáo lặn lội, vượt đường sá xa xôi tìm đến tận nhà ruộng để vận động, xin phép cha mẹ đưa Hồ Mai Vy về ở tại điểm trường Tắk Pổ thuận lợi cho việc học. Ngoài giờ học, các cô nấu ăn, chăm sóc Vy và các bạn như những đứa con trong gia đình.
Lũ trẻ vùng cao có lẽ vì vậy coi các cô giáo như mẹ của mình. Em Hồ Mai Vy tâm sự: “Con rất thích đi học vì đến trường rất vui vẻ. Các cô giáo vừa dạy chữ vừa quan tâm giúp đỡ các em, đông viên em cố gắng học tập tốt.”
Niềm hạnh phúc lớn nhất của cô giáo vùng cao là học sinh chăm ngoan, không bỏ học. Những dịp lễ, tết hay Ngày Nhà giáo Việt Nam 20 – 11, món quà mà học sinh miền núi dành tặng các cô là những bó hoa rừng, búp măng rừng, những bó rau, cây mía… Nhìn vào những đôi mắt trong veo, gương mặt lem luốc của học sinh vùng cao, nhiều cô giáo từ bỏ ý định chuyển về công tác dưới xuôi dù có cơ hội.
Cô giáo Đinh Thị Tươi, Trường PTDT bán trú Tiểu học và THCS Phước Lộc, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam có hơn 10 năm dạy học ở đây. Mảnh đất vùng cao nhiều gian khó này là nơi cô Tươi tìm được hạnh phúc lứa đôi, lập gia đình. Cô Đinh Thị Tươi nhớ lại, trận lũ quét, sạt lở núi kinh hoàng cuối năm 2020 đã cướp đi sinh mạng 4 em học sinh, đa số các em còn rất nhỏ tuổi, nhiều em mồ côi cha mẹ sau thiên tai... Thời điểm đó, cô Đinh Thị Tươi đang mang thai, cận kề ngày sinh nhưng vẫn cố gắng động viên các em học sinh vượt qua nỗi đau mất người thân. Chồng cô Tươi là cán bộ xã Phước Lộc, trực tiếp tham gia công tác cứu nạn, cứu hộ người dân trong thiên tai. Một kỷ niệm mà cô Tươi không thể nào quên chính là trong những ngày mưa lũ dữ dội ấy: “Nhìn học sinh của mình mất đi người thân tôi thấy rất đau lòng. Chúng tôi luôn bên cạnh động viên để các em vượt qua sự mất mát. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn sợ, đây là kỷ niệm đáng nhớ để sau này tôi kể lại cho con tôi về hành trình con đến với thế giới này khó khăn như thế nào. Mình đặt tên cho con là Bùi Đinh Không Quân, gắn với tên của lực lượng Không quân Việt Nam đã cứu 2 mẹ con mình ra khỏi vùng sạt lở.”
Đến nay, hệ thống giao thông miền núi tỉnh Quảng Nam sau các đợt thiên tai vẫn chưa khắc phục xong. Để đảm bảo việc học tập không bị gián đoạn, phụ huynh và các thầy, cô giáo ở miền núi phải cõng học sinh lội qua sông, suối, băng qua những đoạn đường nguy hiểm đến lớp. Ông Thái Viết Tường, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Nam cho biết, điều kiện khó khăn là vậy nhưng những năm qua tỷ lệ học sinh bỏ học ở vùng cao tỉnh Quảng Nam ngày càng giảm, số lượng học sinh tốt nghiệp cấp ba, đỗ Đại học ngày càng tăng. Theo ông Thái Viết Tường, những thành quả đó có đóng góp không nhỏ của các thầy, cô giáo nhiều năm dạy học ở miền núi: “Trong điều kiện khó khăn của giáo dục miền núi, chúng tôi đánh giá rất cao những đóng góp của các giáo viên miền núi. Có rất nhiều cô giáo công tác ở miền núi hàng chục năm, hy sinh tuổi thanh xuân của mình vì học sinh miền núi. Có nhiều cô dành cả tuổi xuân để dạy học ở vùng cao đến nay vẫn chưa lập gia đình. Tôi rất cảm kích và xin được cảm ơn những cống hiến của các thầy cô đặc biệt là các cô giáo.”
Trên non cao, tiếng hát của những đứa trẻ dân tộc thiểu số đã nuôi bao hy vọng cho những cô giáo cắm bản trong hành trình “gieo chữ”. Rồi mai đây những đứa trẻ ấy sẽ lớn lên và đi đến chân trời mới. Vùng cao gian khó sẽ đổi thay nhờ những lớp học giữa đỉnh trời hôm nay./.
Viết bình luận