Cơnh đêêc ng’cơnh bhrợ đoọng “choom ma mông dh’rưah lâng đhr’năng plêêng k’tiêc môp bênh” xooc ting t’ngay ting la lay cơnh lâng k’đhap k’dâng? Ahêê đh’rưah xơợng g’luh prá xay bhlưa PV t’ruih lâng PGS-TS Đỗ Quang Thiên, Trưởng khoa Địa lý - Địa chất, Trường Đại học Khoa học Huế crêê tươc ooy apêê xa nay n’nâu:
1.PGS-TS Đỗ Quang Thiên chăp nhêr, bâc c’moo đăn đâu, đợ mơ gâm ngut âng crâng coh k’tiêc hêê vêy cr’đơơng dưr bâc ting c’moo n’đhang crâng g’mrâng năc dzợ pa bhlâng hăt. Nâu đoo choom moon năc tu bhrợ đhr’năng hr’lang k’tiêc ting t’ngay ting ngân?
PGS-TS Đỗ Quang Thiên: Đợ mơ gâm ngut âng crâng đhị Việt Nam bâc c’moo đăn đâu vêy cr’đơơng dưr bhưah đươi vêy crâng choh, n’đhang crâng g’mrâng đhị vêy c’bhuh đoong, riah lâng bhơi nhâc bhrợ đoọng t’mâng k’tiêc tran năc xiêr hăt r’dợ. Cr’chăl och crâng bhrợ ha rêê, tr’xăl crâng dzang k’tiêc choh bhrợ keo, bạch đàn lâng pay đươi crâng la lâh bâc bhrợ pa xiêr ngân bh’rợ k’đhơợng zư k’tiêc, zư đac âng c’bhuh n’loong n’cuông coh crâng.
Lâh n’năc, crâng choh, pa bhlâng năc c’bhuh tơơm công nghiệp dưr pâ đơơh, căh choom bhrợ t’vaih c’bhuh riah cơợng, mâng, đhộ, c’bhuh riah apêê tơơm n’nâu năc u hăt, căh u đhộ, tu cơnh đêêc căh vêy pr’đươi bhrợ t’mâng k’tiêc tran cơnh crâng g’mrâng. Apêê pa chăp ch’mêêt lêy đăn đâu đoọng lêy crâng g’mrâng năc choom pa xiêr 30-70% đhr’năng hr’la c’câh, đhị bêêl crâng choh năc đhêêng vêy dâng 10-20% a năm.
Tu cơnh đêêc, n’dhơ đhăm crâng coh bha ar pa tơ vaih u bhưah ting c’moo, n’đhang chất lượng crâng năc xiêr, năc râu tu chroi doọng bhrợ apêê g’luh hr’lang hr’câh, tuh hor - tuh lụ k’tiêc, đhêl dưr vaih ngân r’dợ coh miền Trung đhị bâc c’xêê ha nua.
2. Bh’rợ tr’xăl k’tiêc crâng bhrợ apêê dự án c’lâng p’rang, thủy điện… căh âi mr’cơnh liêm cr’đơơng bil bâc đhăm crâng a bhuy. Anhi choom xay moon lêy cr’đơơng n’đoo âng apêê dự án n’nâu cơnh lâng đhr’năng hr’lang da ding xooc đâu?
PGS-TS Đỗ Quang Thiên: Xooc đâu, bâc dự án c’lâng p’rang, thủy điện lâng đhăm ăt t’mêê bơơn xay bhrợ căh âi xay moon liêm zâp ooy địa chất - địa mạo, cr’đơơng tươc bh’rợ clăh k’tiêc tran đhộ bhưah, bhrợ t’bhưah c’năt c’lâng lâng pay lơi c’bhuh bhơi nhâc. Bh’rợ tr’nơơp năc bil râu yêm têêm âng k’tiêc tran tơợ l’lăm. Năc choom moon bêl tr’oot da ding crêê ta clăh, bhrợ t’mơ địa kỹ thuật crêê bhrợ t’bil, bhrợ đhr’năng hr’lang hr’câh dal. Râu bơr năc, năc bhrợ pa dưr pr’đơợ đac hooi căh choom clâp ooy k’tiêc năc bhrợ hooi đơơh lâh, bhrợ rooch k’tiêc, bhrợ pa dưr apêê cr’chăl tr’oot da ding. Râu 3 năc, k’rong đac n’đăh tu thủy điện, bhrợ pa dưr dal áp ực đac ooy boọng hôông, năc đoo bhrợ cr’đơơng tươc hr’lang hr’câh ngân. Lâng x’ría năc đoo căh zâp apêê chr’hooi đac mr’cơnh bhrợ ha k’tiêc tran crêê ta clăh buôn k’rong đơc đac coh hân noo boo.
Tu cơnh đêêc, apêê dự án pa dưr hạ tầng ha dang căh xay moon lêy, ch’mêêt lêy yêm têêm k’tiêc tran tơơp tơợ tr’nơơp năc đoo râu bhrợ cr’chăl hr’lang hr’câh, tuh hor, pa bhlâng năc đhị zr’lụ da ding miền Trung, đhị dhăm k’tiêc tran, tr’clăh dưr bhưah lâng boo năc k’đhap k’dâng.
3.Cơnh đêêc năc lâng bh’rợ ng’chreh da ding k’coong, pr’toh mìn, bhrợ ha vooh đhâl chăng bhrợ pazêng công trình, dự án, bhrợ dự án, bhrợ đong máy thuỷ điện năc vêy cơnh bhrợ da ding k’coong hr’lang hr’câh đơơh lâh mơ?
PGS - TS Đỗ Quang Thiên: Pazêng bh’rợ bhrợ têng cơnh pếch k’tiêc da ding k’coong, bhrợ pr’toh mìn, bhrợ ha vooh đhâl chăng, chreh da ding k’coong năc bhrợ t’vaih rau la lay cơnh đhr’năng ơy vaih âng da ding k’coong, đớc lơi bâc rau căh liêm choom. Ba bi cơnh bhrợ pr’toh mìn bhrợ bhrợ cr’đooh cvoh đhâl, rau nhâm mâng năc căh dzợ lâh, bhrợ t’vaih đhr’năng choom dưr vaih ha vooh lâng cluút. Ting n’năc, pếch, chreh k’tiêc da ding k’coong bhrợ t’vaih đhr’đấc bâc pa bhlâng (tơợ 45 -70 độ), z’lâh cơnh cơnh đợ đhr’đác nhâm mâng cơnh ơy tỵ u vaih coh k’tiêc vel đong. Thứ 3, năc bhrợ t’bil đợ k’tiêc ga lóp âng bhơi xấc nhâm mâng, bhrợ ha đác buôn pa bhlâng chrêệp hooi ooy k’tiếc, bhrợ ha đác moot ăt coh b’boọng, pa xiêr đhr’năng tr’têệt âng k’tiếc. Coh x’rịa, đhr’năng ch’hooi đác âng công trình căh zập liêm, bhrợ ha đác dưr hooi ooy muy z’rooh, bhrợ pa dưr đhr’năng hr’lang hr’câh, tuh pr’hậc - lụ hooi.
Tu cơnh đêêc, pazêng bh’rợ âng công trình n’nâu căh muy bhrợ đhur crâng g’mraang ting n’năc bhrợ pa đơơh đhr’năng dưr vaih lâng đợ rau căh liêm crêê âng pazêng công trình coh đhr’đác da ding dal cơnh hr’lang hr’câh k’tiêc, tuh pr’hậc.
4. Đoọng g’đéch rau rau bil hư ngân bhlâng tu hr’lang hr’câh k’tiếc bhrợ t’vaih, năc vêy choom xay moon xa nay pa rơớt đơơh lâh mơ đoọng zooi đhanuôr đơơh g’đéch rau căh liêm crêê?
PGS-TS Đỗ Quang Thiên: Năc choom pa bhlâng lâng k’dua apêê đoo bhrợ. Muy pr’đươi pa rơơt đơơh liêm choom bhlâng pazêng vêy: Ta luôn quan trắc, năc đăng lêy đợ bâc âng boo, radar lêy đhr’năng âng đhí boo đhí, vệ tinh GPM; InSAR, Sentinel -1 đoọng bơơn lêy đhr’năng dưr hr’lang hr’câh; Cảm biến IoT: Đợ đhr’đấc âng da ding, đhr’năng tân đhựch, đợ bấc đác coh boọng k’tiêc. Xang n’năc bh’rợ xay moon đớc: Mạng học máy (RF, XGBoost, GBDT), bh’rợ học ghít lâh mơ (CNN,LSTM); pr’đươi ch’mêệt đợ bâc bhlâng âng boo (I-D, R-T threshold) t’đui ooy zr’lụ k’tiêc. Ting n’năc năc truyền thông xay moon pa rơơt ha zập ngau: SMS, app moon pa rơơt đhi boo, tuh bhlong, lao chr’val- bhươl cr’noon, bản đồ trực tuyến; Quy định đơ ha mơ ng’pa tơơi đhanuôr (t’đui cơnh 3 mức: ra văng- moon pa rơơt k’rơ - đơơh hân ng’pa tơơi). Coh x’rịa năc k’rong đh’rưah pac zr’lụ vêy đhr’năng bâc: Vêy đhr’năng u vaih (căh ng’xay t’ngay c’xêê); Moon pa rơơt (t’đui ooy cr’chăl); Rau căh liêm crêê (k’rong 3 cơnh: vêy đhr’năng u vaih - n’leh vaih- buôn bhlâng vaih rau bil hư).
Ha dang xay bhrợ liêm choom, Việt Nam năc mặ g’đéch tơợ 60 - 80% rau bil hư tu rau căh liêm crêê tơợ da ding k’coong cơnh coh bâc k’tiêc k’ruung châu Á ơy xay p’căh.
5. Coh pazêng c’moo đăn đây, đhí boo tuh bhlong ting t’ngay vaih k’rơ pa bhlâng lâng vaih rau căh liêm crêê năc bhrợ t’vaih boo đanh bhlâng, đhí vaih ta luôn, tuh t’tooi vaih, hr’lang hr’câh da ding k’coong coh bâc ooy. Ting cơnh i nhi, chính quyền lâng đhanuôr bhrợ n’hau đoọng choom ăt mamông crêê cơnh lâng đhí boo, tuh bhlong!
PGS - TS Đỗ Quang Thiên: Đoọng choom ăt mamông liêm choom, năc xay bhrợ t’đui cơnh 3 xa nay bh’rợ chr’năp:
- N’đăh chính quyền năc choom quy hoạch đươi tơợ đhr’năng choom vaih rau căh liêm crêê: Căh choom ra pặ đhanuôr ăt mamông coh zr’lụ vêy đhr’năng vaih rau căh liêm crêê bâc bhlâng; Xay moon zr’lụ đác tuh hooi - tuh pr’hậc vaih; Ch’mêệt lêy ghít đhr’năng âng k’tiêc bêl k’nặ bhrợ pazêng rau dự án. Bơr n’năc bhrợ công trình năc pa xiêr rau căh liêm crêê: Z’rooh đác hooi coh đhr’đấc da ding k’coong, pa mâng k’tiêc đhr’đâc, pa mâng lâng lái thép; boọng k’rong đớc lụ, g’roong đhâl, zr’lụ g’đéch lụ đhâl. Rau pêê cậ năc bản đồ buôn vaih rau căh liêm crêê t’đui ooy c’moo: Ta bơơn n’năl ting c’moo lâng UAV - InSAR -AI; xay p’căh tước ooy chr’val (phường), bhươl cr’noon.
- Ooy cấp cộng đồng: năc choom p’too pa choom ooy c’năl âng đhí boo, tuh bhlong cơnh: Đhr’năng n’năl vaih hr’lang hr’câh: cr’đooh z’đâr, cr’đooh cum đong, n’loong đa đêng, tọm đác dưr t’căl; Bh’rợ pa tơơi t’đui cơnh xa nay moon pa rơớt. Bhrợ đong ăt g’đéch tu ha zập ngai lâng zr’lụ pa tơơi crêê liêm tươc ooy zr’lụ da, vêy điện la lay lâng thông tin liên lạc. Cơnh pêê choh cơ crâng, bhrợ t’vaih bh’rợ bhrợ cha nhâm mâng: T’đui choh crâng vêy bâc rau n’loong, xăl tu muy rau n’loong; Pa dưr bh’rợ ch’choh crêê cơnh coh adêr da ding dal.
- Ooy đanh đươnh: năc căh choom pếch bhrợ t’vaih đhr’đấc k’tiếc da ding la lâh dal; K’rong bhrợ ooy pr’đươi ch’mêệt lêy zazum; ting n’năc k’rong pazêng dữ liệu lâng quy hoạch bhlưa Trung ương - tỉnh (thành phố) - Chr’val (phường); Cơnh đêêc năc “ăt mamông đh’rưah lâng đhí boo, tuh bhlong crêê cơnh” căh muy bh’rợ âng đhanuôr, năc bh’rợ tr’nêng âng prang hệ thống k’đhơợng xay - khoa học - cộng đồng./.
Ớ, chăp hơnh PGS - TS Đỗ Quang Thiên!
CẦN GIẢI PHÁP THÍCH ỨNG VỚI THIÊN TAI NGÀY CÀNG KHÓ LƯỜNG
Năm 2025 là một năm thiên tai diễn biến khó lường. Tại các địa phương miền Trung, người dân từ đồng bằng đến vùng núi cao liên tiếp trải qua những thảm họa thiên tai chưa từng có, bão lũ, ngập lụt, sạt lở khắp nơi. Riêng các xã vùng núi thành phố Đà Nẵng đã xảy ra hàng trăm điểm sạt lở núi, thậm chí “đất chảy” ngay cả khi trời nắng ráo. Vậy làm thế nào để “sống chung với thiên tai” đang ngày càng dị thường và cực đoan? Chúng ta cùng nghe trao đổi giữa PV chương trình với PGS-TS Đỗ Quang Thiên, Trưởng khoa Địa lý - Địa chất, Trường đại học Khoa học Huế xung quanh những nội dung này.
1. Thưa PGS-TS Đỗ Quang Thiên, những năm gần đây, độ che phủ rừng ở nước ta có tăng lên nhưng rừng nguyên sinh còn rất ít. Đây có phải là nguyên nhân khiến tình trạng sạt lở đất ngày càng nghiêm trọng?
PGS-TS Đỗ Quang Thiên: Độ che phủ rừng của Việt Nam những năm gần đây có xu hướng tăng nhờ rừng trồng, song rừng tự nhiên nơi có cấu trúc tán, rễ và thảm mục giúp cố định sườn dốc lại giảm mạnh. Quá trình đốt rừng làm rẫy, chuyển đổi rừng sang đất sản xuất như là trồng keo, bạch đàn đơn loài và khai thác rừng quá mức làm suy giảm nghiêm trọng khả năng giữ đất, giữ nước của hệ sinh thái rừng.
Ngoài ra thì, rừng trồng, đặc biệt là cây công nghiệp sinh trưởng nhanh, không tạo được tầng thảm mục dày, hệ rễ ăn nông, mật độ thưa, vì thế không có tác dụng ổn định mái dốc như rừng tự nhiên. Các nghiên cứu gần đây cho thấy rừng tự nhiên có thể giảm 30-70% nguy cơ trượt lở, trong khi rừng trồng chỉ đạt khoảng 10-20%.
Do vậy, mặc dù diện tích rừng trên giấy tờ tăng, nhưng chất lượng rừng suy giảm đó chính là nguyên nhân góp phần làm các tai biến trượt lở, lũ quét - lũ bùn đá trở nên nghiêm trọng hơn ở miền Trung trong những tháng vừa qua.
2.Việc chuyển đổi đất rừng làm các dự án giao thông, thủy điện… thiếu đồng bộ dẫn đến mất nhiều diện tích rừng tự nhiên. Ông đánh giá thế nào tác động của những dự án này đối với nạn sạt lở núi hiện nay?
PGS-TS Đỗ Quang Thiên: Hiện nay, nhiều dự án giao thông, thủy điện và tái định cư được triển khai thiếu đánh giá toàn diện về địa chất - địa mạo, dẫn đến việc cắt xén sườn dốc sâu, mở rộng mặt đường và loại bỏ lớp phủ thực vật. Hệ quả thứ nhất là mất ổn định mái dốc tự nhiên. Tức là khi chân dốc bị cắt xén, cân bằng địa kỹ thuật bị phá vỡ, tăng nguy cơ dịch trượt khối lớn. Thứ 2 là, nó tăng dòng chảy mặt, nước không được thấm vào đất mà tập trung chảy nhanh hơn, gây xói mòn, tạo rãnh - mương xói, kích hoạt các quá trình sườn dốc. Thứ 3 là, tích tụ nước phía thượng lưu công trình thủy điện, làm tăng cao áp lực nước lỗ rỗng, là yếu tố kích hoạt trượt lở sâu. Và cuối cùng là thiếu các công trình thoát nước đồng bộ khiến mái dốc bị cắt xén dễ bão hòa nước trong mùa mưa.
Vì vậy, các dự án phát triển hạ tầng nếu không đánh giá, giám sát ổn định sườn dốc ngay từ đầu sẽ là tác nhân mạnh mẽ thúc đẩy quá trình trượt lở, lũ quét - lũ bùn đá, nhất là tại khu vực đồi núi miền Trung, nơi địa hình dốc, đứt gãy phát triển và mưa cực đoan.
3. Vậy còn việc cắt xén sườn dốc, bạt núi, nổ mìn, phá đá để xây dựng các công trình, dự án, làm nhà máy thủy điện có thúc đẩy nhanh mức độ sạt lở núi hay không thưa ông?
PGS-TS Đỗ Quang Thiên: Các hoạt động thi công như là bạt núi, nổ mìn, phá đá, cắt xén sườn dốc trực tiếp nó làm thay đổi cấu trúc địa cơ học tự nhiên của mái đốc, để lại một loạt tác động tiêu cực. Ví dụ nổ mìn thì làm nứt nẻ vi mô trong các khối đá gốc, làm giảm độ bền kháng cắt, hình thành mặt trượt tiềm năng. Ngoài ra thì bạt núi tạo ra mái dốc nhân tạo dốc đứng (45–70°), vượt quá góc dốc bền tự nhiên của đất đá địa phương. Thứ 3 là nó làm mất lớp phủ thực vật và tầng phong hóa ổn định, khiến nước mưa xâm nhập sâu, tăng áp lực nước lỗ rỗng, giảm lực ma sát theo mặt trượt. Cuối cùng là Hệ thống thoát nước công trình chưa đầy đủ, khiến nước tập trung vào các rãnh yếu, thúc đẩy trượt lở, lũ quét - dòng bùn đá.
Do vậy, các hoạt động công trình này không chỉ làm suy yếu rừng tự nhiên mà còn tăng tốc độ phát triển và mức độ nghiêm trọng của các quá trình sườn dốc như là sạt lở, lũ quét.
4. Để tránh những thiệt hại nặng nề do sạt lở đất gây ra, liệu có thể đưa ra những cảnh báo sớm, giúp người dân chủ động phòng tránh thiên tai?
PGS-TS Đỗ Quang Thiên: Hoàn toàn có thể và bắt buộc phải làm. Một hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả gồm: Quan trắc liên tục, tức là lượng mưa thực đo, radar thời tiết, vệ tinh GPM; InSAR, Sentinel-1 để mà phát hiện biến dạng tiền trượt; Cảm biến IoT: nghiêng dốc, chuyển vị, áp lực nước lỗ rỗng. Rồi những mô hình dự báo: Mạng học máy (RF, XGBoost, GBDT), mô hình học sâu (CNN, LSTM); Mô hình ngưỡng mưa (I-D, R-T threshold) theo từng vùng địa chất. Tiếp theo là truyền thông cảnh báo cộng đồng: SMS, app cảnh báo thiên tai, loa xã - bản, bản đồ trực tuyến; Quy định ngưỡng kích hoạt sơ tán (theo 3 mức: sẵn sàng - cảnh báo cao – sơ tán bắt buộc). Cuối cùng là kết hợp với phân vùng nguy cơ - rủi ro: Nguy cơ (theo không gian); Cảnh báo (theo thời gian); Rủi ro (tổng hợp 3 yếu tố: nguy cơ - phơi bày - dễ tổn thương)
Nếu triển khai đồng bộ, Việt Nam hoàn toàn có thể phòng tránh 60-80% thiệt hại do các tai biến trên sườn dốc gây ra như như nhiều quốc gia châu Á đã chứng minh.
5. Những năm gần đây, thiên tai ngày càng dị thường và cực đoan gây mưa kéo dài, bão chồng bão, lũ chồng lũ, sạt lở núi trên diện rộng. Theo ông, chính quyền và người dân cần làm gì để thích ứng, sống chung với thiên tai?
PGS-TS Đỗ Quang Thiên: Để thích ứng hiệu quả, cần tiếp cận theo ba tầng chiến lược sau:
-Về phía chính chính quyền thì cần quy hoạch dựa trên rủi ro: Không bố trí dân cư vào vùng nguy cơ rất cao; Xác định hành lang thoát lũ - lũ quét; Đánh giá địa kỹ thuật bắt buộc trước mọi dự án. Hai là xây dựng công trình giảm thiểu rủi ro: Mương thoát nước đỉnh dốc, gia cố mái dốc, neo - lưới thép; Hồ lắng, bẫy đá, tuyến tránh dòng bùn đá. Thứ 3 là bản đồ rủi ro phải cập nhật theo năm: Cập nhật theo năm bằng UAV - InSAR – AI; Công bố đến từng xã (phường), thôn.
-Về cấp cộng đồng: cần giáo dục nhận thức thiên tai như: Dấu hiệu nhận biết trượt lở: nứt tường, nứt nền, cây nghiêng, nước suối đục; Kỹ năng sơ tán theo cấp cảnh báo. Xây dựng nhà tránh trú cộng đồng và điểm sơ tán an toàn ở vị trí cao ráo, có điện độc lập và thông tin liên lạc. Thứ 3 là khôi phục rừng tự nhiên, tạo sinh kế bền vững: Ưu tiên rừng hỗn giao thay rừng trồng đơn loài; Phát triển nông nghiệp thích ứng trên đất dốc.
-Về tầm nhìn dài hạn: phải giảm thiểu can thiệp thô bạo vào sườn dốc; Đầu tư dài hạn vào mạng lưới quan trắc tổng hợp; Đồng bộ dữ liệu và quy hoạch giữa Trung ương - tỉnh (thành phố) - Xã (phường); Tức là “Sống chung với thiên tai” không chỉ là việc của người dân, mà là nhiệm vụ của cả hệ thống quản lý - khoa học - cộng đồng.
Vâng, xin trân trọng cám ơn PGS-TS Đỗ Quang Thiên!
Viết bình luận