Liêm chr’nắp j’niêng bh’rợ t’moót, ta lấh zơng đợc ha roo âng manứih Cơ Tu
Thứ tư, 16:28, 09/03/2022
Xoọc đâu, cóh zr’lụ k’coong ch’ngai k’noong k’tiếc Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, zâp đhị zơng đợc ha roo âng manứih Cơ Tu nắc ta bhrợ đợc đhị zâp ha rêê. Zơng đợc ha roo âng manứih Cơ Tu nắc mưy râu văn hoá chr’nắp liêm lalay. Lấh mơ, j’iêng bh’rợ t’moót lâng ta hơ zơng ha roo âng manứih Cơ Tu nắc mưy j’niêng chr’nắp liêm, vêy râu p’too pa choom acoon manứih năl lêy chắp đợ bh’nơơn bơơn bhrợ âng đay.

Manứih Cơ Tu ắt ma mung lấh mơ nắc lêy bhrợ têng ha rêê, ting tal bhrợ ha rêê lâng a’chị chuung xang nặc lêy óch. Xang bêl óch nắc lêy rấh lâng nắc lêy chật ha roo, bhrợ bhơi, xoót pay. Cóh ha rêê chóh pazưm tr’lục bấc râu, xang mơ 2, 3 hân noo chóh bhrợ nắc lêy đợc mưy cr’chăl cắh dzợ bhrợ đhị đêếc, đoọng k’tiếc chô liêm cớ nắc vêy chô bhrợ cớ. C’xêê 8, 9, 10 xang bêl đhanuôr bhr’lậ pa liêm đông xang tang léh nắc cóh ha rêê ha roo tơợp đoọm. Đhanuôr nắc lêy tơợp xoót bơơn, bêl ahay đhanuôr cóh đâu nắc mưy c’moo xoót bơơn mưy chu. Xang bêl lêy cha mêết ha rêê liêm ghít lâng lêy ha roo đoọm liêm nắc manứih Cơ Tu lêy pay t’ngai Zi Brang (nắc t’ngay 17 âm lịch) lướt xoót bhrợ ha roo. Manứih lêy moót đơợ lăm cóh ha rêê nắc apêê k’căn cóh đông, lêy pay 3 đoong ha roo lêy chọ t’moót ooy zong đắh hoọng, xang nặc lêy lêy k’bhluốt pay tr’bứi ha roo t’moót ooy zâp zong apêê lơơng, bhiệc lêy bhrợ cơnh nắc manứih Cơ Tu moon Chrây lâng manứih bhuốih: Ha roo t’mêê, k’bhêê chă đêệng, bịng zong bịng đông, puôn ch’nắt ch’pắt ch’nêếh bịng gọ gooi, tooi đoọng ha zi k’van k’bhố, liêm crêê... Nâu đoo nắc râu zước nhăn, rơơm kiêng bơơn bhrợ bấc, k’van k’bhộ, têêm ngăn.

Bêl ơy xoót bhrợ liêm xang, ha roo nắc lêy pác bhrợ zâp c’lâng bh’rợ: M’bứi lêy đợc cóh đông đoọng buôn pay cha. Dzợ ha mơ nắc mơ 5-10 ang lêy đợc cóh zơng, đoọng tước hân noo xoót bơơn t’tưn. Mưy ha dang lưm cắh pr’đoọng cơnh ra roóh k’cát, k’ay k’naanh, bhuốih cáih manứih bil năc vêy pay đươi, ha dang doọ râu nắc hân đhơ cha a’băng, cha a’rong cung cắh choom pay đươi cha. Lấh mơ dzợ, bơơn lêy chơớih pay tơợ đợ tơơm ha roo bấc ha roo, cr’liêng pa pậ liêm đoọng lêy đợc bhrợ m’ma ha hân noo t’tưn. Dzợ ha mơ nắc lêy đợc zêng cóh zơng. Zơng nâu năc lêy bhrợ đăn đhị ha rêê, ch’ngai đhị đông ta pêếh vêy câm óih buôn ra roóh k’cát. Ha bêl pr’loọng đông cha lứch ha roo cóh đông nắc vêy choom ta lấh pay cóh zơng.

Bhiệc ta lấh zơng bêl ahay nắc vêy mưy cơnh j’niêng rơợng nhâm: Manứih ta lấh zơng nâu nắc mưy manứih t’coóh, c’la âng pr’loọng đông. Nâu đoo nắc mưy râu hâng hơnh âng manứih pân đil Cơ Tu. Tơợ dzợ p’niên, pân đil n’đoo bhriêl ta bách, đa đấh, vêy c’rơ liêm choom lâng zay, t’bhlâng bhrợ cha nắc vêy bơơn apêê da dích lêy moon pa choom đoọng bhiệc ta lấh zơng nâu. Manứih pân đil n’đoo bơơn lêy pay ta lấh zơng ha roo nắc mưy a’đoo n’nắc a’năm, cắh choom đoọng apêê lơơng, mưy ha dang manứih n’nắc vêy k’đươi moon nắc vêy choom. bhiệc lêy đoọng nâu nắc lêy xang bêl bhuốih giàng, pay mưy cr’puốt ha roo, pazao đoọng ooy manứih bhuốih bhrợ: Nâu acu pazao đoọng m’ma-manứih lalay xăl acu, lâng k’coon cu doọ vêy pân lơơng. Tơợp t’ngay đâu pa cất ha y brương ađoo nâu nắc pay ha roo cóh zơng, rơơm abhô dang ha roo oó k’pân, xó mứt, x’xoót bhrợ c’moo t’tưn bơơn bấc lấh mơ c’moo t’tưn. Nâu đoo nắc râu xay moon p’cắh, zước nhăn đắh a’bhô dang đoọng ađoo năl, zúp đoọng bơơn bhrợ hân noo t’tưn bấc lấh. Đoọng lêy ta lấh zơng ha roo, bêl t’ngay đha, năc t’ngay 8 âm lịch, apêê p’căn da dịch đấh dưr bêl ra diu, hoọm buốch liêm sạch, xập n’đoóh t’mêê liêm, lêy moót bhrợ j’niêng bh’rợ ta lấh zơng nâu. Bhiệc lêy bhuốih bhrợ liêm buôn, nắc mưy đác cha ngaách lâng hi la, mưy râu hi la choom cha p’lêê lâng váih bấc p’lêê, cơnh hi la bhợc, lêy zước nhăn đắh a’bhô dang ha roo đoọng pay ha roo đắh zơng clóh bhrợ cha nêếh zêệ cha cóh đông. P’ngan ch’na l’lăm ađoo lêy cha lăm đoọng zước đắh giàng. Xang bêl zâp ngai cóh đông cha, bêl đâu apêê choom pay pa glúh k’zệt ang ha roo đoọng zêệ bhrợ avị đêệp, a’vị hor k’đươi vel bhươl, bhúh xoọng cha. Nâu đoo nắc t’ngay cha hơnh déh ha roo t’mêê âng đhanuôr Cơ Tu. Bhiệc lêy k’đập ta hơ zơng đợc ha roo âng manứih Cơ Tu nắc mưy j’niêng chr’nắp liêm, đoọng ahêê năl ooy j’niêng bh’rợ k’rong k’míah âng apêê, lâng vêy râu p’too pa choom zâp ngai lêy năl chắp đợ bh’nơơn bh’rợ âng đay.

Hân đhơ lêy ắt ma mung ta bhứch bấc râu, ma bơơn bhrợ cha cóh crâng k’coong...nắc manứih Cơ Tu vêy loom luônh liêm ta níh, chắp hơnh manứih. Ha dang vêy ngai lướt vốch xrang c’lâng cắh cậ bhrêy tắh nắc apêê đhanuôr cóh vel đông cung lêy băn zư liêm ta níh. Manứih pân đil Cơ Tu ta luôn lêy đoọng đợ râu ch’na đh’nắh a’yêm bhlâng, p’ngan a’vị r’boọt yêm cắh cậ đợ lêệ la t’mêê bơơn đoọng ha ta mooi đắh cha. Đh’rứah lâng j’niêng bh’rợ chr’nắp liêm, bhiệc prá xay, ặt tớt âng manứih Cơ Tu cung chr’nắp liêm, bơơn ta chắp lêy, hơnh déh bhlâng./.

Độc đáo tục cất, mở kho lúa người Cơ Tu

Hiện nay, vùng cao biên giới Tây Giang, tỉnh Quảng Nam, các kho lúa của người Cơ Tu còn rải rác ở cạnh các nương rẫy. Kho lúa của người Cơ Tu là nét văn hóa rất riêng và độc đáo… Đặc biệt, tục lệ cất và mở kho lúa của người Cơ Tu là một phong tục đẹp, vừa có tính giáo dục con người biết quý trọng thành quả lao động của mình.

Người Cơ Tu làm rẫy là chính, canh tác theo lối phát cây bằng rìu và dao quắm, rồi đốt, sau đó dùng gậy chọc lỗ để tra hạt giống, làm cỏ bằng cái nạo có lưỡi sắt uốn cong, tuốt lúa bằng tay. Rẫy đa canh, xen canh và cứ sau vài vụ lại bỏ hoang hóa một thời gian dài trước khi canh tác tiếp. Vào tháng 8, tháng 9, tháng 10, sau khi đồng bào sửa sang lại nhà cửa xong thì ngoài nương rẫy lúa bắt đầu chín tới. Đồng bào bắt tay vào việc thu hoạch lúa màu. Trước đây vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây một năm chỉ có một vụ mùa. Sau khi dạo quanh các nương rẫy xem và đoán định lúa đã chín đều khắp hay chưa, người Cơ Tu chọn ngày Zi Brang (nhằm ngày 17 âm lịch) đi tuốt lúa. Người bước chân vào rẫy tuốt lúa đầu tiên là người mẹ trong nhà, bà ngắt ba bông lúa cột riêng bỏ vào gùi sau lưng, sau đó tuốt vài ba bông trao cho các chị em mỗi người một ít, cách phân công như thế, tục người Cơ Tu gọi là chrây và bà khấn: Haroo t'mêê, k'bhêê chă đêệng; bịng zoong bịng đông; puôn ch'nắt ch'pắt ch'nêếh bịng gọ goi; tooi đớc hazi k'van k'bhố, crêê liêm... (Lúa mới đừng tổn hao; đong đầy kho; bốn miếng sáu hạt nở đầy nồi; rủ nhau về đây cho chúng tôi giàu no, yên lành).

Khi đã thu hoạch xong, lúa thường được chia làm các phần: Một phần cất trong nhà để ăn dần. Phần khác, cỡ 5-10 ang, cất một chỗ riêng trong kho lúa, để dành cho tới khi thu hoạch vụ sau. Chỉ khi gặp rủi ro như hỏa hoạn, ốm đau, cúng người vừa từ trần thì mới dùng tới, ngoài ra, cho dù có phải ăn măng, ăn sắn cũng không được dùng cho mục đích khác. Một phần nữa, được chọn ra từ những cây lúa sai hạt, hạt to, đều, chắc nhất để dành làm giống cho vụ sau. Phần còn lại chất vào kho. Kho- cr'lăng là một nhà sàn nhỏ và cao được làm bên cạnh nhà zuông (nhà tạm ở ngoài rẫy) trên rẫy, xa nhà ở có bếp lửa để tránh bị hỏa hoạn. Khi nào gia đình ăn hết phần lúa ở nhà mới mở kho lấy lúa.

Công việc mở kho xưa nay có một tục lệ nghiêm ngặt: Người mở kho phải là một cụ bà, chủ của gia đình. Đây là một vinh dự của người phụ nữ Cơ Tu. Từ khi còn bé, cháu gái nào tỏ ra thông minh, lanh lẹ, có sức khỏe tốt và có biểu hiện siêng năng, chăm chỉ chịu khó làm ăn mới được bà chọn hướng dẫn thủ tục mở kho. Người phụ nữ nào được chọn mở kho lúa thì chỉ mỗi người đó thôi, không được thay thế người khác, trừ khi được ủy quyền trực tiếp. Thủ tục ủy quyền như sau: Sau khi cúng Giàng, thần cụ bà mở kho, hốt một nắm lúa nhỏ, vừa trao cho người mới vừa khấn: "Nâu acu p'giao ma- nưíh l'lay xăl acu, lợng ca coon cu dóo vêy pơn lơơng. Tơớp t'ngây đâu pacớt h'y brương a đoo ưn nâu pây haroo cóh cr'lăng, rơơm aô haroo óo capơn caxót, óo mút xó, x'xoót cơmoo h'tố hbớc lớh cơ moo đâu" (Nay trao cho người khác thay cho tôi, và con tôi, không ngại kẻ khác. Kể từ nay về sau người này được mở kho lấy lúa, mong hồn kho cho mở, hồn lúa đừng sợ mà bỏ đi. Cầu mong Giàng, thần phù hộ để mùa sau cũng bội thu hơn mùa này). Để mở kho lúa, vào ngày Đha (nhằm ngày mồng 8 âm lịch), cụ bà dậy từ rất sớm, tắm rửa sạch sẽ, mặc tấm h'đooh mới nhất, sạch sẽ nhất, lặng lẽ vào nhà Zuông và làm thủ tục cúng lúa mở kho. Lễ vật cúng đơn giản là nước trong và lá cây rừng (loại lá con người ăn được và sai quả nhất, thường là cây chôm chôm rừng (pơc)), khấn thần linh và hồn lúa xong bà lấy lúa trong kho ra tự giã và nấu cơm cho cả nhà. Tất nhiên bát cơm đầu tiên bà ăn trước để xin phép Giàng. Sau khi mọi thành viên trong nhà ăn xong, lúc này họ có thể xuất ra cả chục ang lúa nếp để nấu xôi (cơm lam, cơm nếp) để mời làng xóm ăn. Đó là ngày ăn mừng lúa mới của người Cơ Tu. Tục lệ cất và mở kho lúa của người Cơ Tu là một phong tục đẹp, cho chúng ta biết về tập quán "tích cốc, phòng cơ" của họ, vừa có tính giáo dục con người biết quý trọng thành quả lao động của mình.

Tuy phải sống thiếu thốn, tự cung tự cấp giữa núi rừng, ăn uống dè xẻn nhưng người Cơ Tu lại rất nổi tiếng bởi tấm lòng thơm thảo. Người lỡ đường, kẻ bị nạn cạnh làng hay người có việc tạt ngang qua cũng được dân làng nuôi nấng tử tế. Người phụ nữ Cơ Tu luôn dành những món ngon nhất, bát cơm dẻo nhất hay phần thịt thú mới săn được cho khách vào làng. Cùng với phong tục đẹp, văn hóa ứng xử đầy tính nhân văn của người Cơ Tu vì vậy luôn được suy ngẫm, trân trọng và đáng quý.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tags:

Viết bình luận

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC