Ba ar dó di urang Mông hu ngak meng phun giang bánh tẻ, tuk tak mai song kuah saat tal kanduh gah langiu, kaoh jeng dom đoạn bloh riak dalam ia gam song bau ghing. Urang riak tal tuk mboh ống giang ni nyu limin bloh srong tagok , ba tram dalam ia dom harei bloh mek tabiak jan klik, buh tame thung ia, vak tagok meda hu sa hỗn hợp tapung ba ar. Patui di nan, urang halang dom candaih giang prong tuh tabiak song piah ka nyu kandong veik tabung sit, limen. Piah ngak jeng baar, urang ngak khuôn cán ba ar, tui hatai khin pandar meda ngak khuôn prong atau sit , min bhian pandar khuôn hình chữ nhật, mbaok khuôn meng tanyaih, 4 mbaok nẹp 4 gai kayua kajap. Tuk ngak ba ar, urang mek hỗn hợp tabung ba ar sit limin hu halang tuh tagok mbaok khuôn, cán brei samu gauk, hadei di nan, pok khuôn tagok, tabung ba ar gam bak di mbaok khuôn. Tuk ni ba khuôn tabiak cambu, cang tal tuk nyu thu meda jeng ba ar song mek tabiak truh khuôn bloh ngak tal ba ar karei.
Ilamu ngak ba ar dó di urang Dao jeng adat cambat meng kan. Urang Dao hu biak rilo adat cambat, tanarakun, dalam yaok adat nan ba ar dó lac pandap biak prong yau: cih vak veiok, khik piah dom bài cúng, ngak jien ba ar piah paling yang, ngak ba ar tauk, parai trun mbat quan tài tuk hu urang metai. Urak ni urang Dao dok ngak janih ba ar ni meng tangin takai, nan lac tuk padai tasak katam, pataom jeng mbuk sit jan mek asar, piah veik pong, mek pong thu riak song ging bau meng 1 - 2 harei. Pong hu riak tapa melam mbiah tal tuk nyu ralai tabiak, srong tagok, rao saat song tram ia la-ar piah dom thur mur song ging bau gam tame pong tathuak tabiak. Hadei di nan, mek gaiy khang jan klik pong bloh brei pong tame ia, ralai tabiak bloh tuh tabiak sàng piah tabung pong sit nyu kandaong trun. Urang ngak sa boh khung, pacang sa blah tanyiak ngak habar ka tanyiak biak catang bloh tuh tapung pong samu mbaok angaok tanyiak sa tal lipih song ba nao cambu. Tuk mboh tapung pong thu, mek talang kaeing kubau sah haluak, lipih piah cakeih taom dar khung tanyiak, pakhuak tal ba ar tabiak gah langiu. Tuk nan hu blah ba ar prong urang cakak sit yaok candiak tui bruk pandar.
Urang Dao oh pandar pong nduik piah ngak ba ar yaom lac pong nduik nyu nyuak song mbau pahe bo njauk pandar pong tẻ kayua urang Dao sahaneng lac brah nduik piah ngak xôi nyu gam biak khang song pong nduik nyu nyuak jang pong tẻ. Kayua yau nan ye, ngak ba ar meng pong nduik piah paling yang pateok but khamot ye dom suan yava but khamot ni nyu gam veik. Tuk tame sang urang Mông, mong tagok papan kakuh hu mboh dom blah ba ar dó hu cakak jeng thaik thaot karei di gauk piah trang trí song blah ba ar sit mbat dom bilau menuk tual angaok danieng hu ieu lac xử ca atau dom baoh tapuk meng ba ar dó vak dom bài cúng di urang Dao, urang khik piah dom pluh thun ni mai, min oh khut hagait. Tapa nan brei brei mboh bruk khang kajap di janih ba ar hu ngak meng tangin takai di mik va bangsa takik. Song njauk iek prong iek glong jang lac ilamu ngak ba ar ni hu mik va ngak piah khik ramik ilamu meng kan di ong muk caik veik ./.
Kỹ thuật làm giấy dó của người Mông, người Dao
Người Mông và người Dao là hai tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao ở Việt Nam. Vì chung nhóm ngôn ngữ nên một số phong tục tập quán có sự tương đồng; Ðiển hình như kỹ thuật làm giấy dó, chỉ khác nhau về nguyên liệu chế biến. Mời quý vị cùng nghe giới thiệu đôi nét về kỹ thuật làm giấy dó của đồng bào Mông và Dao qua TM các DT anh em tuần này
Giấy dó của người Mông được làm từ cây giang bánh tẻ, khi chặt về cạo sạch lớp vỏ bên ngoài, chặt thành từng đoạn rồi ninh kỹ trong nước cùng với tro bếp. Người ta ninh tới khi cảm thấy ống giang này mềm thì vớt ra, đem ngâm trong nước vài ngày rồi lấy ra đập nát, thả vào thùng nước, khuấy lên sẽ được một hỗn hợp bột giấy. Tiếp đó người ta sàng lọc những mảnh giang to bỏ ra và để lắng lại những bột nhỏ, mịn. Ðể làm thành giấy, họ phải làm sẵn khuôn cán giấy, tùy vào nhu cầu sử dụng có thể làm khuôn to hoặc nhỏ, nhưng thường sử dụng khuôn có hình chữ nhật, mặt khuôn bằng vải, 4 cạnh nẹp 4 thanh gỗ chắc chắn. Khi làm giấy, người ta múc hỗn hợp bột giấy nhỏ mịn đã lọc đổ lên trên mặt khuôn, cán phẳng đều, sau đó từ từ nhấc khuôn lên, bột giấy sẽ bám đầy trên mặt khuôn. Lúc này đem khuôn ra phơi, đợi đến lúc khô sẽ thành giấy và lấy ra khỏi khuôn rồi tiếp tục làm lớp giấy khác.
Kỹ thuật làm giấy dó của người Dao cũng đã trở thành tập tục truyền thống. Người Dao có rất nhiều nghi lễ, trong mỗi nghi lễ ấy giấy dó là vật dụng rất quan trọng như: sao chép, lưu giữ các bài cúng, làm giấy tiền để cúng, làm giấy lót, dải xuống đáy quan tài khi có người chết. Hiện nay người Dao vẫn làm loại giấy này bằng kỹ thuật thủ công, đó là khi lúa chín vàng, lượm thành từng con nhỏ đập lấy hạt, để lại rơm, lấy rơm khô đem ninh cùng tro bếp từ 1 - 2 ngày. Rơm được đun liên tục qua đêm cho tới khi nhừ, vớt ra, rửa sạch và cho vào ngâm nước lạnh để mọi vết bẩn và tro bếp bám vào rơm bong ra. Sau đó lấy đòn cứng đập nát rơm rồi cho rơm vào nước, hòa tan đổ ra sàng để bột rơm nhỏ lắng xuống. Người ta đóng một cái khung, căng một mảnh vải sao cho vải thật căng rồi đổ bột rơm láng đều trên mặt vải một lượt mỏng và mang phơi. Khi cảm thấy bột rơm khô, lấy xương sườn trâu mài sắc, mỏng để cậy xung quanh khung vải, lật dần lớp giấy ra ngoài. Khi đã có cả mảng giấy to, người ta cắt nhỏ từng miếng tùy theo mục đích người sử dụng.
Người Dao không dùng rơm nếp để làm giấy dù rơm nếp có độ dẻo và mùi thơm mà bắt buộc phải sử dụng rơm tẻ do người Dao quan niệm rằng gạo nếp để nấu xôi có độ kết dính rất cao và đương nhiên rơm nếp cũng có độ dẻo dai hơn rơm tẻ. Vì vậy nếu làm giấy bằng rơm nếp để cúng xua đuổi ma sát hại thì những hồn ma này bị dính lại . Khi vào nhà người Mông, nhìn lên ban thờ sẽ nhìn thấy những mảng giấy dó được cắt thành những hình thù khác nhau để trang trí và mảnh giấy nhỏ dán mấy túm lông gà treo trên tường gọi là xử ca hay những cuốn sách bằng giấy dó ghi chép những bài cúng của người Dao, họ lưu giữ mấy chục năm nhưng không bị mục nát. Ðiều này cho thấy giá trị bền vững của sản phẩm là giấy được làm từ kỹ thuật thủ công của đồng bào dân tộc thiểu số. Và đáng trân trọng hơn, kỹ thuật làm giấy này vẫn được đồng bào thực hành để bảo tồn nét văn hóa truyền thống của cha ông để lại./.
Viết bình luận