Đươi vêy p’zay bhrợ têng, bâc pr’loọng đha nuôr âi vêy râu pa chô yêm têêm, pr’ăt tr’mông ting t’ngay ting dưr ta clơ lâh. N’đhơ cơnh đêêc, râu âng đha nuôr căh yêm ăt tơt xooc đâu bh’nơơn bh’rợ năc căh vêy choom pa câl, lum bâc râu zr’năh k’đhap
Đhị đhăm nang pih ngam bhưah lâh 2 sào xooc moot hân noo pêêh pay, amoó Lý Thị Hằng coh vêêl Đồng Râm, chr’val Thạnh Mỹ pêêh ting t’crô pih ngam, k’pooc hơnh lêy bh’nơơn bh’rợ xang bâc t’ngay c’xêê zư x’mir. Amoó Hằng xay moon, pih ngam Thạnh Mỹ n’dhơ căh lâh u pâ, n’đhang n’căr c’đă, u ngam l’ngooi, tơợ đanh âi dưr vaih râu p’lêê p’coo looih, bơơn bâc ngai coh zr’lụ kiêng cha. Zâp c’moo, diic điêl amoó zêng choh p’xoọng tơơm pih ngam t’mêê, p’zay zư x’mir lêy đoọng vêy pih ngam yêm, ngam. Xang k’noọ 10 c’moo p’zay bhrợ têng, tơợ bơr pêê t’nơơm pih tr’nơơp, nâu câi nang pih ngam âng amoó âi bhưah lâh 2 sào cơnh lâng k’noọ 200 bhr’lâng, pa chô zâp hân noo lâh 3 tấn p’lêê.
N’đhơ cơnh đêêc, râu bhui har hân noo pêêh pay năc c’chăl lâng râu k’rang k’uôl c’lâng pa câl. Bâc c’moo đâu, âi tươc câ hân noo pih đoọm, đoọm muy chu chu, n’đhang căh ngai lâh tươc năl pay câl, bh’rợ pa câl lum bâc zr’năh k’đhap, bâc bêl đhưh đơc pih đoọm zroọ ooy k’tiêc cơnh đêêc. Đhêêng cơnh c’moo đâu, diic điêl amoó Hằng pa đhêy bh’rợ choh p’xoọng tơơm pih, đương vêy đhị pa câl yêm têêm lâh năc vêy pa chăp tươc cớ:
“Zâp hân noo bơơn pêêh pay dâng 3 tấn. pa câl sĩ năc 20 r’bhâu đồng muy ký, pa câl la lêêh năc 25 r’bhâu. N’đhang căh choom pa câl a ôt, bâc bêl pih đoọm ma zroọ ooy k’tiêc zêng, đơơng pa câl ooy chợ ha dang crêê bêl t’ngay tơơp c’xêê căh câ tr’cuôl năc bơơn pa câl bơr pêê zêt ký, ha dợ t’ngay n’lơơng năc pa câl m’bứi a năm”.
Coh chr’val da ding ca coong Sông Vàng, ra zeh tơợ đanh âi dưr vaih tơơm z’nươu looih lâng đha nuôr coh đâu. Râu tơơm n’nâu bơơn năl tươc cơnh lâng bâc pr’đươi liêm ha c’rơ, pa bhlâng năc zooi pa dưah apêê cr’ay ooy p’lê, pa dưah bhih pa, tă đhăng lâng c’chêêt khuẩn HP. Căh muy cơnh đêêc, razeh dzợ choom bhrợ liêm loom, choom bêch, tu cơnh đêêc bâc ngai pay bhrợ pr’ộm zâp t’ngay.
Bâc c’moo đăn đâu, bơơn lêy chr’năp ooy tr’mông lâng cr’noọ đươi dua dưr bâc, bâc pr’loọng đha nuôr coh da ding ca coong Sông Vàng âi chơơih pay tơơm razeh bhrợ c’lâng bhrợ cha t’mêê. Prang chr’val xooc vêy dâng k’zêt pr’loọng choh pa dưr tơơm n’nâu, n’jưah đoọng đươi ộm coh đong, n’jưah đơơng pa câl ooy lơơng.
Pr’căn Đậu Thị Tuyên năc muy coh bâc ngai choh bhrợ đanh lâng tơơm razeh. Pr’loọng đong đoo vêy lâh 3 sào, zâp c’moo bơơn pay k’noọ m’zêt tạ razeh gooh, pa câl cơnh lâng zên tơợ 80 r’bhâu tươc 100 r’bhâu đồng/kg. N’đhơ cơnh đêêc, ting pr’căn Tuyên, bh’rợ pa câl bh’nơơn công năc râu âng đoo k’rang bhlâng:
“Bhrợ chè razeh ga lêêh bhlâng, puôh, pa đing, tôm công bil bâc c’rơ g’lêêh. Ha dợ pa câl năc k’đhap bhlâng, bâc năc châc pa câl ooy apêê âi looih pay câl, căh câ đơơng ooy chợ pa câl. Bâc bêl diic điêl zi đơơng tươc Hòa Cầm dzoọng pa câl công căh mơ vêy. Bâc bêl bhrợ xang năc căh choom pa câl, ăt k’rong đơc coh đong toot c’xêê”.
Căh muy pih ngam, chè razeh, bâc râu bh’nơơn bh’rợ n’lơơng coh da ding ca coong Đà Nẵng công xooc lum đhr’năng zr’năh k’đhap đhị bh’rợ pa câl. N’đhơ bh’nơơn liêm, bơơn bâc ngai ngai kiêng, n’đhang đha nuôr da ding ca coong Đà Nẵng công dzợ lum zr’năh k’đhap coh bh’rợ đơơng âng bh’nơơn bh’rợ tươc thị trường. Bâc năc tu căh âi vêy nhãn mác, căh âi xay moon chr’năp pr’đơc la lay, bh’nơơn bh’rợ m’bứi, lalêêh. N’đhơ bâc bh’nơơn OCOP căh câ pr’đhang bh’rợ bhrợ têng ting c’lâng hữu cơ dzợ k’tứi, la lêêh, căh lâh bâc, chất lượng căh âi lâh liêm a lua đoọng ký hợp đồng đanh lâng doanh nghiệp.
Zr’lụ da ding ca coong thành phố Đà Nẵng xooc vêy k’rơ bhâu hécta nang chr’noh chr’bêêt, đoọng bâc bh’nơơn. N’đhơ cơnh đêêc, bh’rợ p’têêt pa zum bhlưa đha nuôr choh bhrợ lâng doanh nghiệp dzợ căh âi liêm; bh’rợ zư lêy, bhrợ têng, xay pa căh bh’nơơn công dzợ năc râu đhur. T’cooh Lê Văn Tư, Chủ tịch UBND chr’val Sông Vàng, thành phố Đà Nẵng đoọng năl:
“Xooc đâu, bh’rợ chơơc lêy c’lâng pa câl bh’nơơn bh’rợ âng đha nuôr k’đhap bhlâng. L’lăm, azi p’too moon, pa choom đoọng ha đha nuôr đươi dua apêê nền tảng mạng xã hội đoọng xay pa căh bh’nơơn âng đay. Ooy đanh đươnh, coh Nghị quyết Đại hội Đảng bộ chr’val g’luh tr’nơơp công âi xay moon ghit bh’rợ chơơc lêy c’lâng pa câl ha bh’nơơn bh’rợ da ding ca coong”./.
KHÓ KHĂN ĐẦU RA CHO NÔNG SẢN MIỀN NÚI ĐÀ NẴNG
Những năm gần đây, bà con ở các xã miền núi của thành phố Đà Nẵng tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế vườn đồi. Nhờ chịu khó học hỏi và cần cù lao động, nhiều hộ gia đình đã có thu nhập ổn định, đời sống ngày càng khấm khá hơn. Tuy nhiên, điều khiến bà con trăn trở hiện nay vẫn là đầu ra cho nông sản, gặp nhiều khó khăn
Trên mảnh vườn rộng hơn 2 sào đang vào vụ thu hoạch, chị Lý Thị Hằng ở thôn Đồng Râm, xã Thạnh Mỹ cẩn thận hái từng trái cam, nâng niu thành quả sau bao tháng ngày chăm bón. Chị Hằng chia sẻ, cam Thạnh Mỹ tuy không to, nhưng vỏ mỏng, vị ngọt thanh, từ lâu đã trở thành loại trái cây quen thuộc, được nhiều người trong vùng yêu thích. Mỗi năm, vợ chồng chị đều trồng thêm vài chục gốc cam mới, chăm bón tỉ mỉ để giữ được chất lượng cam sạch, ngọt lành. Sau gần 10 năm cần mẫn, từ vài gốc cam ban đầu, nay vườn cam của chị đã mở rộng hơn 2 sào với gần 200 gốc, cho thu hoạch mỗi vụ hơn 3 tấn quả.
Thế nhưng, niềm vui mùa thu hoạch lại xen lẫn nỗi lo đầu ra. Nhiều năm nay, cứ đến vụ, cam chín đồng loạt, nhưng thương lái ít biết đến, việc tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, nhiều khi chín rụng vàng gốc mà không kịp bán. Riêng năm nay, vợ chồng chị đành tạm dừng kế hoạch mở rộng vườn, chờ có đầu ra ổn định hơn rồi mới tính tiếp.
“Mỗi vụ thu được hơn 3 tấn. Bán sỉ thì khoảng 20 nghìn đồng một ký, còn bán lẻ thì được 25 nghìn. Nhưng mà khó nhất là đầu ra, nhiều khi cam chín rộ cùng lúc, ra chợ bán nếu dịp rằm và mồng 1 thì cũng chỉ được vài chục ký thôi, còn ngày thường bán được ít lắm”.
Ở xã miền núi Sông Vàng, chè dây từ lâu đã trở thành dược liệu quen thuộc với bà con nơi đây. Loại cây này được biết đến với nhiều công dụng tốt cho sức khỏe, đặc biệt là hỗ trợ điều trị các bệnh về dạ dày như viêm loét, đau rát, đầy hơi, nhờ khả năng giảm axit, kháng viêm và diệt khuẩn HP. Không chỉ vậy, chè dây còn giúp thanh nhiệt, mát gan, an thần, giúp ngủ ngon, nên được nhiều người ưa chuộng dùng thay trà hằng ngày.
Những năm gần đây, nhận thấy giá trị kinh tế và nhu cầu thị trường tăng, nhiều hộ dân ở miền núi Sông Vàng đã chọn cây chè dây làm hướng phát triển kinh tế mới. Toàn xã hiện có khoảng chục hộ trồng loại cây này, vừa để dùng trong gia đình, vừa mang bán cho khách hàng ở các nơi khác.
Bà Đậu Thị Tuyên là một trong những người gắn bó nhiều năm với cây chè dây. Gia đình bà có hơn 3 sào chè, mỗi năm thu được gần chục tạ chè khô, bán ra với giá từ 80 đến 100 nghìn đồng một ký. Tuy nhiên, theo bà Tuyên, việc tiêu thụ sản phẩm vẫn còn nhiều khó khăn:
“Làm chè dây cực lắm, phơi, sấy, đóng gói cũng mất công. Mà tiêu thụ thì khó, chủ yếu gửi cho người quen đặt mua, hoặc đem ra chợ bán. Nhiều lúc vợ chồng tôi mang tận Hòa Cầm đứng bán mà cũng chẳng bán được bao nhiêu. Nhiều khi làm xong mà không bán được, phải cất kho cả tháng”.
Không chỉ cam, chè dây, nhiều loại nông sản khác ở miền núi Đà Nẵng cũng đang gặp tình trạng khó khăn trong tiêu thụ. Dù sản phẩm sạch, được nhiều người ưa chuộng, nhưng bà con miền núi Đà Nẵng vẫn gặp khó trong việc đưa nông sản đến với thị trường. Nguyên nhân chủ yếu do chưa có nhãn mác, chưa đăng ký thương hiệu, sản phẩm còn dừng lại ở quy mô nhỏ lẻ. Thậm chí, nhiều sản phẩm OCOP hay mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ còn manh mún, chưa đủ số lượng, chất lượng để ký hợp đồng dài hạn với doanh nghiệp.
Khu vực miền núi thành phố hiện có hàng ngàn hecta cây ăn quả và cây dược liệu, cho năng suất cao. Tuy nhiên, việc liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp còn lỏng lẻo; khâu bảo quản, chế biến, quảng bá sản phẩm vẫn là điểm yếu. Ông Lê Văn Tư, Chủ tịch UBND xã Sông Vàng, thành phố Đà Nẵng cho biết:
“Hiện nay, việc tìm đầu ra cho nông sản của bà con cũng là một bài toán khó cho địa phương. Trước mắt, chúng tôi vận động, tuyên truyền, tập huấn cho người dân và khuyến khích bà con chủ động áp dụng chuyển đổi số, sử dụng các nền tàng mảng xã hội để quảng bá, giới thiệu sản phẩm của mình. Về lâu dài, chúng tôi cũng đã đưa trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ Nhất về giải pháp căn cơ trong việc tìm hướng đầu ra cho nông sản miền núi”./.
Viết bình luận