Chè Ra zeh dzợ vêy đh’nớc lơơng nắc chè hoàng giang, Song nho. Nâu đoo nắc muy rau t’nơơm a ngoọn, chắt đhị zr’lụ bhơi k’rang coh bôl da ding . Chơh pô k’dâng c’xêê 6-7, boong p’lêê moọt c’xêê 9-10. Bha ar xrặ pa căh đớc nắc tơơm Ra zeh chắt vaih bấc đhị apêê tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai. Đhị Đà Nẵng, Ra zeh chăt vaih coh gâm crâng đhị Hoà Bắc lâng Hoà Phú. Coh t’tun đâu bơơn apêê pr’loọng đong đhanuôr Cơ Tu đơơng chô choh coh bhươn đong.
Chè Ra zeh choom pếêh pay prang c’moo. Đoong k’tứi lâng hi la chè pay zệê đác âm. Đác chè nâu tợơp âm xợơng chếêc, coh t’tun xợơng ngam ngam coh mr’loọng, đha hum, buôn ng’âm. Ting cơnh Đông y, Chè Ra zehâm xợơng ngam, choom t’bil độc tợơ a chắc a rang hêê, pa dưah phong thấp, r’rặ x’xêê dưr liêm k’rơ. Ríah choom pa xiêr ca ay, đoong lâng hi la choom pa dưah đhôn, k’chệêt khuẩn Helicobacter pylori, pa dưah ca ay p’luung. Bơr pêê bha ar xrặ ơy cha mệêt lêy rau liêm choom âng za nươu pa dứah tợơ chè Ra zeh nâu nắc choom pa dưah cr’ay p’luung, pa xiêr ca ay, zêl, khuẩn, zêl oxy hoá, doó vaih độc tính cấp lâng bán trường diễn.
Cơnh kinh nghịêm âng đhanuôr hêê nắc pay a ngoon, hi la pa dưah apêê cr’ay crêê tước cr’ay p’luung cơnh g’ợ k’dúa, g’ợ hơi, ch’hat mr’loọng, âm đoọng buôn ng’bêch. Xọoc đâu, bấc ngai năl tước chè ra zeh cơnh nắc muy rau za nươu pa dưah bhih p’luung, hành tá tràng liêm choom bhlầng, doó vaih cr’ay cơnh lơơng, doó choom bhrợ t’vaih độc cấp tính. Lâh mơ, riah lâng t’nơơm ra zeh đoọng pa dưah ca ay loom, rớơc n’căr, ca ay hạch bạch huyết cấp tính, crêê độc bêl cha vi khuẩn mặ zâng lâng bhooh, cr’ay mr’loọng, k’cọt, ca ay n’glọong n’hang. Ríah pay pa dứah đhị băng bhrêy, phong thấp tê ca ay, hi la pay pa dưah đhị bhrêy gluh a ham. Pay đươi, zệê âm tợơ 15-60g. Bêl bhrêy nắc pay tơơm t’mêê cloh nhar g’lọp đhị bhrêy căh cợ zệê chệên k’jọoc, đh’hấc ca ay kết mạc cấp.
Đợ rau choom pa dưah:
Pa dưah ca ay p’lung: Ting cơnh kinh nghịêm âng đhanuôr Tày đhị Lạng Sơn, Cao Bằng, zập t’ngay pay mơ 30-50g chè ra zeh đớc coh k’bhe đui cơnh pha trà căh cợ nắc pay zệê âm, âm bấc chu. Muy g’luh pa dưah nắc tợơ 15-30 t’ngay.
Pa dưah cay k’hir, eh ca ay mr’loọng: Zệê âm ríah lâng a ngoọn ra zeh đợ bấc mơ 15-60g.
Pa dưah phong thấp, ca ay mr’nịt n’hang, ca ay thần kinh toạ:Zệê âm ríah lâng a ngoọn ra zeh đợ bấc mơ 15-30g. Lâh mơ pay đươi hi la cloh nhar, xào đoọng puih, tôm lâng bhai sạch, g;lọp đhị ca ay.
Pa dưah crêê bọol độc tu vi khuẩn choom cha bhooh (luônh ca ay căh dzợ cơnh, lướt pr’zuôh đui cơnh đác rao lệê): pay riah t’mêê 50g, a hứ 15g, pa xoọng 2 choom đác, zệê âm 1-2 chu. P’niên k’tứi, ma nuyh t’cooh t’ha căh cợ ca ay doó lâh ngân nắc âm m’bứi lâh.
Pa dưah áp-xe (vaih pr’nung tu nhiễm trùng) căh cơh ca ay dưr vaih cớ: Pay zệê âm riah ra zeh mơ 15g zệê lâng m’pâng đác, m’pâng a lắc, căh cợ pa xoọng xa nanh a’ọc nắc zệê cha./.
Chè dây chữa bệnh dạ dày
Theo báo Đà Nẵng
Chè dây có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, trừ phong thấp, mạnh gân cốt. Rễ cây lợi thủy tiêu thũng, giảm đau. Cành lá chè dây còn có tác dụng an thần, làm liền sẹo, diệt xoắn khuẩn Helicobacter pylori, chữa viêm dạ dày…
Chè dây còn có tên Chè hoàng giang, Song nho. Đây là loài dây leo, mọc leo lên bờ bụi vùng đồi núi. Ra hoa tháng 6-7, có quả tháng 9-10. Tài liệu điều tra cho thấy cây chè dây phân bố ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Nội, Ninh Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai. Tại Đà Nẵng, chè dây mọc tự nhiên dưới tán rừng ở Hòa Phú, Hòa Bắc. Sau này được các hộ đồng bào Cơ tu đưa Chè dây về trồng trong vườn nhà .
Chè dây có thể thu hái dây lá tươi quanh năm. Cành nhỏ và lá chè dây khô dùng nấu nước uống thay chè. Nước chè dây có vị chát, sau hơi ngọt, thơm, dễ uống. Theo Đông y, Chè dây có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, trừ phong thấp, mạnh gân cốt. Rễ cây lợi thủy tiêu thũng, giảm đau. Cành lá chè dây còn có tác dụng an thần, làm liền sẹo, diệt xoắn khuẩn Helicobacter pylori, chữa viêm dạ dày. Một số nghiên cứu tác dụng dược lý cho thấy chè dây có tác dụng chống loét dạ dày, giảm đau, kháng khuẩn, chống oxy hóa, không có độc tính cấp và bán trường diễn.
Kinh nghiệm dân gian ở nước ta dùng dây lá chữa các chứng liên quan đến bệnh đau dạ dày như ợ chua, ợ hơi, đau rát thượng vị và làm thuốc an thần, gây ngủ. Hiện nay nhiều người biết đến chè dây như là vị thuốc chữa viêm loét dạ dày, hành tá tràng có hiệu quả, không gây tác dụng phụ, không gây ngộ độc cấp tính. Ngoài ra, rễ và gốc chè dây chữa viêm gan thể vàng da, cảm mạo phong nhiệt, viêm họng, nhọt sảy, mẩn ngứa, viêm tủy xương, viêm hạch bạch huyết cấp tính, trúng độc khi ăn phải vi khuẩn thực vật ưa muối. Rễ cây dùng trị đòn ngã chấn thương, phong thấp tê đau, lá dùng ngoài đắp chữa chấn thương xuất huyết. Liều dùng từ 15-60g sắc uống. Dùng ngoài, lấy cây tươi giã đắp chấn thương hay đun sôi, xông chữa viêm kết mạc cấp.
Bài thuốc:
1. Chữa đau dạ dày: Theo kinh nghiệm của đồng bào Tày ở Lạng Sơn, Cao Bằng, hằng ngày lấy 30-50g chè dây hãm hoặc sắc uống nhiều lần. Một đợt điều trị từ 15-30 ngày.
2. Chữa cảm mạo phát sốt, hầu họng sưng đau: Rễ và thân chè dây 15-60g, sắc uống.
3. Chữa phong thấp, đau nhức khớp, đau thần kinh tọa: Rễ và thân chè dây 15-30g, sắc uống. Ngoài dùng lá chè dây tươi giã nát, xào nóng, gói vào vải sạch, đắp vào chỗ đau nhức.
4. Chữa trúng độc thực vật do vi khuẩn ưa muối (đau quặn thắt bụng trên, tiêu chảy ra nước như nước rửa thịt): Rễ tươi chè dây 50g, Gừng tươi 15g, thêm 2 chén nước sắc uống 1-2 lần. Trẻ em, người già hoặc chứng nhẹ giảm bớt liều lượng.
5. Chữa áp-xe (ổ mủ do nhiễm trùng) hay tái phát: Rễ chè dây 15g, thêm nửa rượu nửa nước sắc uống, hoặc thêm thịt heo nạc hầm ăn./.
Viết bình luận