C’lâng pa trơơi cr’ay bạch hầu buôn bhlầng, nắc trơơi đăh c’lâng pr’hơơm, đác chếêh tợơ boóp âng ma nuyh ca ay cr’ay bạch hầu. Bêl pa prá, k’ooh, pazêng ma nuyh nâu đơơng vi khuân coh đác ha vi, đác cr’choh, g’hạc… gluh ooy không khí, ma nuyh c’rơ crêê hít moọt ooy a chắc, ha dang căh ơy tiêm za nươu cha groong bạch hầu nắc buôn crêê bọo cr’ay nâu (zêng lâng ma nuyh ta ha). Đác cr’choh, ha vi nâu dzợ choom pa trơơi vi khuẩn cơnh đhị bha nên đong, xa nập xập, đhr’nuum, đhị cr’đhơơng pr’loọng, p’rang, chr’ơh p’niên k’tứi… tợơ đếêc nắc trơơi pr’luh cr’ay đoọng ha ma nuyh c’rơ liêm, pa bhlầng nắc p’niên k’tứi ha dang căh ơy ta tiêm za nươu cha groong vi khuẩn bạch hầu.
Cơnh đoọng năl cr’ay bạch hầu
Cr’ay bạch hầu vêy 3 cơnh đơ bhlầng: bạch hầu mr’lọong, bạch hầu c’lâng pr’hơơm lâng bạch hầu ác tính. Rau buôn lưm bhlầng nắc bạch hầu mr’lọong, moh. Đhị cr’ay nâu nắc cr’chăl vaih pr’luh đanh đhị 3 t’ngay, xang đếêc k’hir tr’xin, hooi đác moh, cr’ay mr’loọng, lơơn xợơng k’đhap, bơr pêê t’ngay nắc n’leh giả mạc, bhr’luuc bọo ooy niêm mạc mr’loọng k’đhap đoọng pác lơi, ha dang pa zay pay lơi nắc hooi a ham. Giả mạc dưr vaih đâh bhlầng đhị amidan. Ma nuyh ca ay crêê bọo độc tố (n’căr bhrậu, g’lếêh, a ham xó đâh, xiêr huyết áp). Ha dang bơơn pa dưah crêê cơnh, đâh loon, cr’ay đâh dưah, ha dang căh nắc cr’ay nâu dưr ngân đâh bhlầng vaih cr’ay bạch hầu c’lâng pr’hơơm, k’đhap pa hơơm lâng bhrợ pặt pr’hơơm ha dang căh đâh cấp cứu đâh loon. Rau pêê nắc bạch hầu ác tính, n’leh tợơ t’ngay tr’nợơp căh cợ t’ngay thứ 2, thứ 3 lâng n’leh đhr’năng k’hir puih 39-40 độ, ma nuyh nhưh nhệên, n’căr bhrậu, lơơng xợơng ca ay, nặ tợơ mr’loọng, ca ay tuôr. Ma nuyh ca ay như r’dợ, bhrậu a chắc a zân, pr’hơơm bêl đâh, bêl tr’xin, k’đhap p’hơơm, tría đh’riêng, xiêr huyết áp, a ham xó đâh, ha dang căh loon pa dưah nắc bhrợ cr’pân tước tr’mông âng ma nuyh ca ay.
Dưr vaih cơnh lơơng tu cr’ay bạch hầu bhrợ t’vaih
Dưr vaih cơnh lơơng cr’pân bhlầng nắc tu đhur c’rơ âng da dul. Dưr vaih đhr’năng nâu nắc moọt cr’chăl cr’ay k’nặ ngân, căh cợ vaih zi lưa lâh bơr pêê tuần bêl cr’ay bạch hầu ơy dưah zêng (doó dzợ k’hir púih, doó dzợ giả mạc,..), đhr’năng âng ma nuyh ca ay xoọc đếêc ngân pa bhlầng.
Tợơ cr’ay bạch hầu mr’loọng, ha dang căh đâh bơơn lêy lâng pa dưah đâh loon buôn trơơi bọo lâng vaih nắc bạch hầu thanh quản, muy pr’đhang cr’ay ngân pa bhlầng, tu giả mạc bhrợ xiên c’lâng pr’hơơm bhrợ căh choom p’hơơm, ha dang căh đâh cấp cứu t’vaih c’lâng pr’hơơm, ma nuyh ca ay buôn chệêt bil tu đhưr c’lâng pr’hơơm.
Ơy vêy cơnh đương zêl, cha groong bạch hầu liêm choom
Đhơ bạch hầu nắc cr’ay cr’pân bhlầng ha dợ ahêê oó lu lơ tu đhị k’tiếc k’ruung hêê ơy vêy cơnh cha groong liêm choom, nắc đoo vắc xin cha groong cr’ay bạch hầu. Tu cơnh đếêc, ma nuyh crêê cr’ay bạch hầu nắc ma nuyh căh ơy tiêm za nươu nâu, oó đoọng crêê bọo cr’ay nâu nắc lêy tiêm vắc xin, pa bhlầng nắc p’niên k’tứi. Tu cơnh đếêc, lêy đoọng p’niên lướt tiêm chủng vắc xin đoọng zập ta niêm lâng crêê t’ngay c’xêê. Đh’rưah lâng đếêc, đoọng k’đhợơng lêy cr’ay bạch hầu trơơi bọo, zập cha nắc, zêng lâng p’niên k’tứi ta luôn rao têy lâng xà phòng; k’bịt boóp bêl k’ooh căh cợ bêl chếêh; pa liêm pa sạch a chắc a zân, moh, boóp, mr’loọng zập t’ngay; oó lâh pa đăn lâng ma nuyh crêê cr’ay căh cợ hếch lêy a đoo crêê bọo pr’luh bạch hầu. Tệêm ngăn đhị đong ặt, đhị k’rang zư p’niên k’tứi liêm sạch, aih l’thai lâng vêy zập tr’ang tr’clá p’răng. Dzút pa liêm sạch đong ặt, bha nên đong, đhị buôn k’đhợơng. Khăn dzut moh mặt p’niên lêy rao pa sạch, sát trùng (rao lâng xà phòng căh cợ ar đhị p’răng). Bêl n’leh đhr’năng cr’ay căh cợ hêch lêy crêê cr’ay bạch hầu nắc đoọng ặt pa tuông lâng đơơng tước zr’lụ y tế đoọng bơơn khám, pa dưah đâh loon. Zập cha nắc đhanuôr coh zr’lụ vaih pr’luh nắc lêy bhrợ liêm ta nih bhiệc âm za nươu kháng sinh cha groong pr’luh lâng tiêm vắc xin cha groong cr’ay ting cơnh xay moon lâng k’đươi âng cơ quan y tế./.
Bệnh bạch hầu nguy hiểm nhưng có thể phòng ngừa
Bệnh bạch hầu rất nguy hiểm, bởi ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu cực kỳ mạnh, vì vậy, bệnh bạch hầu là một loại bệnh vừa mang tính chất cấp tính vừa mang tính chất cấp cứu (bạch hầu thanh quản, viêm cơ tim cấp nếu không cấp cứu kịp thời bệnh nhân sẽ tử vong do nghẹt thở, suy hô hấp và suy tim. Bệnh bạch hầu đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
Đường lây truyền của vi khuẩn bạch hầu rất dễ dàng, đó là lây theo đường hô hấp bởi giọt bắn từ người bệnh, người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Khi nói, ho, những người này sẽ bắn vi khuẩn có trong nước bọt, chất tiết, đờm... vào không khí, người lành hít phải, nếu chưa có miễn dịch chống vi khuẩn bạch hầu, sẽ mắc bệnh (ngay cả người lớn). Giọt bắn này còn làm lây lan vi khuẩn ra môi trường xung quanh như: sàn nhà, quần áo, chăn màn, tay vịn cầu thang, đồ chơi trẻ em... từ đây sẽ lây bệnh cho người lành, nhất là trẻ em nếu chưa có miễn dịch chống lại vi khuẩn bạch hầu.
Nhận biết bệnh bạch hầu
Bệnh bạch hầu có 3 loại (thể) bệnh bạch hầu chính: bạch hầu họng, bạch hầu thanh quản và bạch hầu ác tính. Loại hay gặp nhất là bạch hầu họng, mũi. Ở loại này thời kỳ nung bệnh khoảng vài 3 ngày, sau đó có sốt nhẹ, sổ mũi, viêm họng, nuốt vướng, sau vài ngày sẽ xuất hiện màng trắng ngà (giả mạc), xám, dai, dính chặt vào niêm mạc họng rất khó bóc tách, nếu cố bóc tách sẽ chảy máu. Giả mạc phát triển rất nhanh ở amiđan. Người bệnh có biểu hiện nhiễm độc độc tố (da xanh tái, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp giảm). Nếu được điều trị đúng, kịp thời, bệnh sẽ khỏi, nếu không, loại này sẽ tiến triển thành loại bạch hầu thanh quản, niêm mạc thanh, khí quản bị bao phủ bởi một lớp giả mạc gây khó thở cấp, dẫn đến suy hô hấp, tử vong (thường được ví là chết đuối trên cạn), nếu không được cấp cứu mở khí quản kịp thời. Loại thứ ba là bạch hầu ác tính (bạch hầu cấp), xuất hiện ngay ngày đầu tiên hoặc ngày thứ 2, thứ 3, với các triệu chứng rất rầm rộ như sốt cao (39 - 400C) mệt lả, da xanh tái, nôn, nuốt đau, màng giả lan nhanh 2 bên amiđan, hơi thở hôi, hạch góc hàm sưng to, đau làm cổ bạnh ra. Bệnh nhân dần dần bị mệt lả, tím tái, rối loạn nhịp tim, khó thở, khan tiếng, huyết áp tụt, mạch rất nhanh, nếu không xử trí kịp thời có thể bệnh trở nên nguy kịch đe dọa tính mạng người bệnh (tử vong).
Biến chứng do bệnh bạch hầu gây ra
Biến chứng nguy hiểm nhất là suy tim cấp do viêm cơ tim. Biến chứng này có thể xảy ra vào thời kỳ bệnh toàn phát, thậm chí xảy ra muộn hơn sau vài tuần khi bệnh bạch hầu đã khỏi (hết sốt, hết giả mạc,...), tình trạng người bệnh sẽ rất nguy kịch.
Từ thể bạch hầu họng, nếu không phát hiện và điều trị kịp thời có thể lây lan thành bạch hầu thanh quản, một thể bệnh rất nguy hiểm, bởi vì, bị giả mạc che kín đường thở gây nghẹt thở, nếu không cấp cứu mở khí quản, người bệnh có thể tử vong do suy hô hấp cấp.
Bệnh bạch hầu có thể gây biến chứng viêm dây thần kinh vận động ngoại biên; có thể gây liệt các dây thần kinh sọ; gây liệt màn hầu khẩu cái; liệt mềm các chi; liệt cơ hoành, cơ liên sườn. Liệt cơ hoành, cơ liên sườn có thể dẫn đến viêm phổi, suy hô hấp .
Đã có biện pháp phòng bệnh bạch hầu hữu hiệu
Tuy bạch hầu là bệnh nguy hiểm nhưng chúng ta không nên quá lo lắng bởi nước ta đã có biện pháp phòng bệnh đặc hiệu, đó là vắc-xin phòng bệnh bạch hầu. Do đó, người mắc bệnh bạch hầu là người chưa có miễn dịch chống lại vi khuẩn bạch hầu, để không mắc căn bệnh này cần được tiêm vắc-xin, trọng tâm là trẻ em. Do đó cần đưa trẻ đi tiêm chủng vắc-xin đủ mũi tiêm và đúng lịch. Bên cạnh đó, để góp phần ngăn chặn bệnh bạch hầu lây lan, mọi người, ngay cả trẻ em, cần thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu. Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học cần thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng. Cần vệ sinh thường xuyên sàn nhà, đồ chơi, tay vịn cầu thang. Khăn lau tay, khăn mặt dùng cho trẻ cần được giặt sạch, sát trùng (giặt bằng xà phòng, phơi nắng hoặc sấy khô). Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời. Mọi người dân trong ổ dịch cần thực hiện nghiêm túc việc uống thuốc kháng sinh dự phòng và tiêm vắc-xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế./.
Theo Suckhoedoisong.vn
Viết bình luận