Xa nưl âng đing tut căh mưy nặc tr’coọ xa nưl, năc dzợ râu cr’noọ cr’niêng kiêng prá xay, năl pr’hơơm âng mưy râu văn hoá xoọc ta zư lêy lâng pa dưr cớ.
Đing tut vêy ta bhrợ tơợ n’coo cr’đêê, năc mưy râu tr’coọ xa nưl pr’hay ha ngur. Manưih bhrợ lêy pay liêm crêê đợ cr’đêê liêm glặp, têêm ngăn đăh bhiệc lêy bhrợ đoọng xa nưl chr’val xưl, grơơm pr’hay. Mưy bộ đing tut vêy 6 căh cậ 5 n’coo, vêy đợ dal đệ lalay lâng ga măc k’tứi lalay cơnh. Bhiệc lêy bhrợ nâu độp cơnh đing năm. Lâh mơ năc zâp n’coo coh bộ đing tut cơnh đợ xa nưl âng chiing knah, mưy râu chiing chr’năp pr’hăt, ma bhưy chr’năp ooy pr’ăt tr’mung manưih Êđê. Nghệ nhân Y - Du Êban (Ama Đam), coh vêêl Sut Mđưng, chr’val Quảng Phú, tỉnh Đắk Lắk moon, đing tut, năc mưy râu căh choom căh vaih ooy pr’ăt tr’mung văn hoá âng manưih Êđê pa tơợ ahay: “Bêl ahay, tr’coọ xa nưl đing tut ơy vaih ooy pr’ăt tr’mung văn hoá âng manưih Êđê. Nâu đoo năc mưy râu tr’coọ xa nưl ta bhrợ tơợ n’coo cr’đêê; apêê căt mưy c’năt lâng zư đợc đhị n’toọt. Đing tut buôn đươi dua zâp bêl bhiệc bhan, j’niêng cr’bưn cơnh lơi a’bhưy, căh cậ bhuôih ta rí, k’roọc. Xa nưl âng đing tut cung vêy ta plong bêl vêy manưih bil, căh cậ bêl lươt ooy ha rêê. Lâh mơ, coh ha rêê, đing tut cung vêy plong bêl pa đhêy ặt, bhrợ ha hêê xơợng doọ lâh ga lêêh k’bao xang bêl pa bhrợ”.
Râu chr’năp năc bêl ahay, đing tut mưy apêê pân đil a’năm đươi dua. Bêl đợ pân đil Êđê pa đhêy bêl bhrợ ha rêê, apêê lêy plong, cơnh ngoọ pa gơi ooy đhí ta coọng đơơng đợ râu cr’noọ cr’niêng. Vêy bêl bhui har, vêy bêl ta u loom, năc zêng t’moot ooy xa nưl đing tut lươt păr ting đhí.
Ooy đăh lơi a’bhưy, râu ma bhưy chr’năp, bhrợ ha ngur loom manưih bêl apêê a’đhi amoó Êđê tơt đhị manưih bil lâh bil, coh têy k’đhơợng đing tut, lêy plong. Xa nưl đing tut bêl đêêc ahay cơnh râu âng đơơng manưih bil. Xa nưl nâu ha ngur pr’hay cơnh đợ toọm k’tứi chô hooi âng đơơng manưih bil, lâng ting tr’pac đh’rưah lâng apêê coh đông vêy manưih bil. Xa nưl nâu cơnh pa zưm âng manưih ma mung lâng r’vai âng manưih lâh bil.
Nghệ nhân Y-Dăk Niê (Aê H’Nhăm), coh vêêl Sut Mđưng, chr’val Quảng Phú, tỉnh Đắk Lắk đoọng năl, xa nưl đing tut pr’hay ha ngur bhlâng: “Tr’coọ xa nưl nâu năc mưy đoọng ha pêê pân đil plong. Căh mưy đươi dua bêl vêy manưih bil, đing tut dzợ xưl đhị zâp j’niêng bh’rợ pay đơơng kpan, mưy j’niêng bh’rợ chr’năp âng manưih Êđê. Bêl ahay, pân jưih căh choom pay plong tr’coọ xa nưl nâu. Hân đhơ ooy đợ g’luh bhui har căh cậ ta u loom, zâp bêl zâp đhị năc mưy pân đil a’năm choom plong đing tut. Hân đhơ cơnh đêêc, nâu cơy ơy tr’xăl, apêê pân jưih cung choom lêy plong tr’coọ xa nưl nâu”.
Xa nưl âng đing tut năc râu cr’noọ, loom luônh âng manưih k’căn, a’moó liêm ta nih. Nâu cơy, cr’noọ bh’rợ nâu vêy bhrợ t’bhưah lâh mơ, pân jưih cung choom plong đing tut. Hân đhơ cơnh đêêc, lâng manưih Êđê, c’leh bh’rợ ooy pân đil lâng n’coo cr’đêê coh têy, lêy plong đợ xa nưl cơnh đhi lục nhưr, dzợ năc c’leh bh’rợ liêm chr’năp ooy đăh râu p’têêt pa zưm âng pr’hat xa nưl lâng râu ma bhưy chr’năp. Nghệ nhân Y-Djưng Êban (Aê Hanh) coh vêêl Sut Mđưng, chr’val Quảng Phú, tỉnh Đắk Lắk đoọng năl: “Acu kiêng xơợng xa nưl đing tut tu xa nưl nâu pr’hay bhlâng. Ngai choom plong năc xơợng pr’hay ha ngur lâh mơ. Bêl ahay, manưih Êđê plong đing tut ta gợ mưy bưr ooy n’coo lâng plong, ha dợ nâu cơy plong zêng lêy c’boọm zêng n’coo nâu, plong liêm buôn lâh. Đợ ngai kiêng, cơnh zâp đhị zr’lụ du lịch hơnh deh ta mooi coh cr’loọng k’tiêc k’ruung lâng k’tiêc k’ruung lơơng zêng choom moon đợc azi bhrợ tr’coọ xa nưl nâu đoọng ha pêê”.
Đhị bâc ơl xa nưl coh crâng k’coong Tây Nguyên, xa nưl đing tut căh vêy chr’va cơnh chiing, căh ha ngur mơ đing buôt căh cậ r’rộ r’răm cơnh đing năm, năc lêy lươt moot ooy loom manưih, cơnh râu prá xay âng pân đil manưih Êđê. Đing tut căh nặc mưy tr’coọ xa nưl, năc dzợ mưy râu p’rá xa nay p’têêt pa zưm âng ty chr’năp ooy lang xoọc đâu./.
ĐĬNG TŬT – LỜI TÂM TÌNH TỪ NGÀN ĐỜI CỦA NGƯỜI ÊĐÊ
Giữa bao la đại ngàn Tây Nguyên, nơi tiếng gió vi vút trên rẫy, tiếng suối róc rách dưới chân đồi, có một âm thanh rất đỗi thân thuộc – nhẹ nhàng mà sâu lắng – đó là tiếng đĭng tŭt, một nhạc cụ truyền thống độc đáo của người Êđê. Âm thanh của đĭng tŭt không chỉ là tiếng nhạc, mà còn là tiếng lòng, là nhịp đập của một nền văn hóa đang được gìn giữ và hồi sinh.
Đĭng tŭt được chế tác từ ống nứa, là một loại nhạc cụ mộc mạc mà giàu cảm xúc. Người chế tác phải chọn đúng loại nứa phù hợp, đảm bảo kỹ thuật chế tác cho âm thanh vang vọng, trầm ấm. Một bộ đĭng tŭt gồm sáu hoặc năm ống, có độ dài ngắn và kích thước khác nhau. Cách bố trí này khá tương đồng với nhạc cụ đĭng năm. Đặc biệt là mỗi ống trong bộ đĭng tŭt lại tương ứng với từng âm thanh của bộ chiêng knah, một loại chiêng quý, linh thiêng trong đời sống người Êđê. Nghệ nhân Y-Dŭ Êban (Ama Đam), ở buôn Sut Mđưng, xã Quảng Phú, tỉnh Đắk Lắk tâm sự, đĭng tŭt là một phần trong đời sống văn hóa của người Êđê từ bao đời nay: “Ngày xưa, nhạc cụ đĭng tŭt đã hiện diện trong đời sống văn hóa của người Êđê. Đây là một loại nhạc cụ được chế tác từ thanh nứa: người ta cắt một đoạn nứa và giữ lại phần đốt. Đĭng tŭt thường được sử dụng trong các dịp lễ nghi như đám tang, hay những ngày lễ hội của người đã cúng trâu, bò. Âm thanh của đĭng tŭt vang lên trong nhà khi có tang lễ, hay giữa nương rẫy. Đặc biệt, tại nương rẫy, đĭng tŭt cũng được thổi lên trong những phút nghỉ ngơi, giúp vơi đi nỗi mệt nhọc sau giờ lao động”.
Điều đặc biệt là trước kia, đĭng tŭt chỉ dành cho phụ nữ sử dụng. Khi những phụ nữ Êđê nghỉ tay giữa nương rẫy, họ có thể thổi vài làn hơi mỏng, như gửi gió mang theo nỗi niềm. Có khi vui, có khi buồn, tất cả được gói vào tiếng đĭng tŭt bay theo gió rừng.
Trong nghi lễ tang ma truyền thống, hình ảnh linh thiêng, lay động lòng người khi chị em Êđê ngồi quây quần quanh thi hài người đã mất, tay cầm ống đĭng tŭt dựng đứng, đầu ống chạm nhẹ vào môi dưới. Tiếng đĭng tŭt lúc ấy vi vu như lời ru tiễn biệt. Âm thanh ấy dịu dàng như những dòng suối nhỏ chảy qua nỗi buồn, tiễn biệt người đã khuất, đồng thời an ủi những người ở lại. Tiếng nhạc như là sự hòa quyện giữa người sống và linh hồn người đi xa.
Nghệ nhân Y-Dăk Niê (Aê H’Nhăm), ở buôn Sut Mđưng, xã Quảng Phú, tỉnh Đắk Lắk, cho biết, tiếng đĭng tŭt rất dịu dàng: “Nhạc cụ này vốn chỉ dành riêng cho phụ nữ. Không chỉ sử dụng trong đám tang, đĭng tŭt còn vang lên trong nghi lễ rước kpan, một nghi lễ thiêng liêng của người Êđê. Ngày xưa, đàn ông tuyệt đối không được phép thổi loại nhạc cụ này. Dù trong những dịp vui hay buồn, ở bất cứ không gian nào, chỉ phụ nữ mới có quyền sử dụng đĭng tŭt. Tuy nhiên, ngày nay quan niệm đã dần thay đổi, và nam giới cũng có thể thổi loại nhạc cụ này.”
Âm thanh của đĭng tŭt là tiếng lòng của người mẹ, người chị dịu dàng, nhẫn nại, đầy tình cảm. Ngày nay, quan niệm đã cởi mở hơn, nam giới cũng có thể thổi đĭng tŭt. Nhưng với người Êđê, hình ảnh người phụ nữ với ống nứa trong tay, thổi lên những làn âm như sương khói, vẫn là hình ảnh sâu sắc nhất về sự kết nối giữa âm nhạc và tâm linh. Nghệ nhân Y-Djưng Êban (Aê Hanh), ở buôn Sut Mđưng, xã Quảng Phú, tỉnh Đắk Lắk cho biết: “Tôi rất thích nghe tiếng đĭng tŭt vì âm thanh của nó rất hay và cuốn hút. Người nào thổi giỏi thì lại càng khiến âm điệu trở nên tuyệt vời hơn. Ngày xưa, người Êđê thổi đĭng tŭt bằng cách chỉ kề môi vào miệng ống và thổi, còn ngày nay, hầu hết người thổi thường ngậm trực tiếp ống tre nên thổi dễ dàng hơn. Những ai có nhu cầu, chẳng hạn như các khu du lịch đón khách trong và ngoài nước, đều có thể đặt chúng tôi chế tác loại nhạc cụ này cho họ.”
Trong vô vàn âm thanh của đại ngàn Tây Nguyên, tiếng đĭng tŭt không vang vọng như chiêng, không da diết như đĭng buôt hay rộn ràng như đĭng năm, mà lặng lẽ len vào lòng người, như lời tâm tình của người phụ nữ Êđê. Đĭng tŭt không chỉ là một nhạc cụ, mà là một ngôn ngữ, âm thanh nối dài của truyền thống trong thời đại hôm nay./.
Viết bình luận