NGƯỜI LA HỦ
|
|
Tên tự gọi:La Hủ.
Tên gọi khác: Xá lá vàng, Cò Xung, Khù Sung, Kha Quy, Cọ Sọ, Nê Thú.
Nhóm địa phương: La Hủ na (đen), La Hủ sư (vàng) và La Hủ phung (trắng).
Dân số: 9.651 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ
Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng), gần với Miến hơn.
Hoạt
động sản xuất:
Người La Hủ chủ yếu làm nương du canh với nhịp độ luân chuyển cao. Gần đây họ
chuyển dần sang trồng lúa trên ruộng bậc thang. Người La Hủ nổi tiếng về nghề
đan lát (mâm cơm, ghế mây), rèn.
|
Trang
phục nữ La hủ có nhiều tua chỉ màu trên khăn; nhiều đồng xu trên áo và can
ghép tay áo bằng các loại vải nhiều màu. Chiếc mũ của trẻ em không phân biệt
trai gái, đều được đính nhiều xu bạc và chỉ màu. Mũ của chúng có liên quan
đến hồn vía. Vì vậy họ thường kiêng cho hoặc bán mũ con cái của mình. |
Săn bắt,
đánh cá, hái lượm có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế.
Ăn: Người La Hủ đã chuyển từ ăn ngô,
cơm nếp sang chủ yếu cơm tẻ, thích dùng các loại thịt chim, thú do săn bắn
được, cá bắt ở khe suối, măng chua, canh đậu, bầu bí.
Mặc: Người La Hủ không có truyền thống
trồng bông. Trước đây, phụ nữ thường đem thịt thú rừng, nấm hương, thuốc phiện
và các lâm thổ sản quý đổi lấy vải của các dân tộc khác hoặc đổi lấy bông để tự
dệt thành vải. Phụ nữ mặc quần áo dài. Mặc hai lớp áo, áo trong tay dài, cài
khuy bên nách phải, áo ngoài tay ngắn, cài khuy giữa ngực. Ngày thường họ chỉ
mặc áo dài, ngày lễ, tết mặc thêm áo ngắn ra ngoài.
Ở: Trước đây họ thường làm nhà, lều
rải rác ở ngay trên nương, trên núi cao thuộc hai xã Pa Ủ VÀ PA VỆ SỦ HUYỆN
Mường Tè (Lai Châu). Nhà lợp lá, lá vàng lại chuyển đi nơi khác nên người La Hủ
mới có tên Xá lá vàng. Hiện nay, họ phổ biến ở nhà trệt hoặc trình tường bằng
đất hoặc ván. Bếp, nhà thờ và giường ngủ của gia đình bao giờ cũng ở chung một
gian.
Phương
tiện vận chuyển:
Người La Hủ quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai đeo vai để chuyên
chở trong điều kiện địa hình rất dốc. Hon thường địu trẻ khi đi ca hay lúc làm
việc.
|
Trong
các dịp lễ tết, người La Hủ thường dùng trống để giữ nhịp trong điệu xoè múa.
Cũng giống trống Hà Nhì, trống La Hủ được khoét bằng đoạn thân cây gỗ và chỉ
bịt bằng da thú rừng như: nai, hoẵng, bò tót... |
Quan hệ
xã hội: Người La
Hủ cư trú phân tán thành nhiều xóm nhỏ với thành phần dân cư thay đổi thường
xuyên do lối sống du canh. Xã hội chưa có sự phân hoá giàu nghèo. Người phụ nữ
được tôn trọng trong gia đình song có ít vai trò xã hội.
Quan hệ
dòng họ lỏng lẻo, không có người đứng đầu dòng họ và không có nghi lễ cúng bái
cho cả họ. Một số mang tên chim, thú nhưng nhiều họ khác không còn ai nhớ ý
nghĩa.
Cưới xin: Trai gái La Hủ được phép tự do
yêu đương khi đến tuổi lập gia đình. Việc cưới hỏi được tiến hành qua nhiều bước.
Trong só lễ vật nhà trai đưa sang nhà gái bắt buộc phải có thịt sóc. Sau lễ
cưới, cô dâu cư trú bên chồng. Tuy nhiên, tục ở rể vẫn tồn tại với những chàng
trai không sắm đủ đồ dẫn cưới, nhất là bạc trắng.
Sinh đẻ: Phụ nữ La Hủ được phép đẻ trong
gian buồng của mình với sự giúp đỡ của mẹ chồng hay chị em gái. Sau khi đẻ ba
ngày thì lễ đặt tên cho đứa trẻ. Tên của trẻ sơ sinh thường được đặt theo ngày
sinh, do vậy trong cộng đồng người La Hủ, việc trùng tên khá phổ biến. Nếu thấy
trẻ lâu lớn hoặc hay đau ốm, có thể làm lễ đổi tên khác.
Ma chay: Khi nhà có người chết, người ta
bắn súng để đuổi ma và báo cho họ hàng, làng xóm biết. Quan tài thường là một
khúc gỗ bổ đôi, khoét rỗng cả hai nửa. Ngày giờ đi chôn được lựa chọn cẩn thận.
Người La
Hủ không có nghĩa địa cố định. Thời hạn để tang của con cái đối với cha mẹ là
ba năm song không có các dấu hiệu đặc biệt trên trang phục hay đầu tóc.
Thờ cúng: Người ta cúng tổ tiên, bố mẹ và
những người thân đã mất chỉ vào các dịp cơm mới, ngày tết tháng bảy hay gieo xong
lúa nương, khi cưới xin, ma chay. Không có tục cúng vào ngày giỗ. Lễ vật duy
nhất dâng cho tổ tiên là cơm gói trong lá rừng.
|
|
Ngày
nay, người La Hủ đã ở trong các ngôi nhà đất dựng trên các triền núi cao.
Nhiều bản đã định canh định cư. |
Là cư dân
hái lượm nhưng vào dịp tết cơm mới, đầu tháng 10 hay tháng 11, họ kiêng 3 ngày
không đi hái rau, lấy củi, chặt cây, phát cỏ trong rừng để cầu mong cây cỏ tốt
quanh năm.
Quan niệm
về sự sống và chết là do trời định. Ở TRÊN TRỜI CÓ HAI CĂN nhà, một gọi là nà
đề (nhà ốm), một gọi là xơ đề (nhà chết). Nếu hồn của người nào lên đến xơ đề
thì nhất định xẽ chết. Còn nếu hồn lên tới nà đề thì phải làm lễ cúng xin hồn
về để được sống lâu hơn. Người ta tin mỗi người chỉ sống trong một hạn tuổi đã
định ngay từ khi mới đẻ ra. Nhưng cũng có thể sống vượt quá hạn đó nếu như tổ
chức lễ cúng di chá. Phải bói để tìm nguyên nhân giải hạn này.
Học: Xưa kia, người La Hủ Không có
chữ. Hiện nay, học sinh học chữ quốc ngữ. Người La Hủ sử dụng lịch truyền miệng
chia năm thành 12 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật. Họ biết nhiều cây
thuốc trên rừng. Ðể giữ bí mật và mong sự linh nghiệm của những cây thuốc,
người ta thường phủ lên trên những nghi lễ, tín ngưỡng. Mỗi lần định đi hái
thuốc họ giữ kín cả buổi không nói chuyện với ai, bất chợt lẻn vào rừng không
cho người khác biết.
Văn nghệ: Người La Hủ thích nghe và sử dụng
thành thạo khèn.
Chơi: Chiều chiều, trẻ em thường quây
quần bên đống lửa quanh nhà, bên bờ suối vừa chơi, vừa hát, gõ cây làm nhịp
Viết bình luận