Xang bêl k’coon n’jứih Thái tăm ơy chấc lêy năl liêm ghít k’coon n’đil âng đay kiêng lâng bơơn pr’loọng đông n’đil đươi, nắc đông n’jứih đoọng manứih bhrợ bhr’la lướt ta moóh lêy. Manứih bhrợ bhr’la nắc manứih liêm chr’nắp, ắt mamung liêm ta níh, năl ghít ooy j’niêng cr’bưn âng đơơng a’bạ, bánh kẹo, 2 c’nuung prí, 2 pa’nọ a’tao lướt xay moon ta moóh đắh đông n’đil. Xang nặc lêy pay t’ngay c’xêê liêm crêê, 2 đắh pr’loọng đông nắc k’đươi manứih lướt lưm lêy prá xay đắh bhiệc bhrợ bhiệc bhan đoọng ha 2 anhi p’niên nâu, ta moon nắc Vay trai, âng đông đông n’jứih lêy bhrợ. T’coóh Lù Văn Hặc cóh vel Bó, phường Chiềng An, thành phố Sơn La đoọng năl: “Đắh bhiệc zước nhăn, xay xơ âng manứih Thái, đông n’đil xay moon đắh đông n’jứih nắc lêy bhrợ ha mơ đoọng đông n’jứih ra văng. Pa đhang moon cơnh đông n’jứih bhrợ 8 bhiệc bhan nắc vêy 8 p’nong a’tứch lâng zâp t’nôm bhoóh, t’nôm a’hự, hót lào lâng zâp giọ a’xiu giảng, n’coo lêệ k’dzụa liêm zâp.”
Đông n’jứih nắc k’đươi manứih bhrợ bhr’la lêy p’cắh mặt ta moóh lêy đắh đông n’đil ooy zâp pr’đơợ đoọng ha bhiệc zước nhăn. Cơnh jập đồ, đông n’jứih nắc lêy ra văng pr’đươi chọ xọc, 2 cr’puột xọc ta puôl, nhẫn, tòng teng, 2 bêệ pa noọng bạc đoọng ha n’đil, 2 bêệ đoọng ha k’căn n’đil. Lấh mơ pr’đươi pr’chăm, nắc dzợ vêy t’nôm a’bạ, a’hự, bhoóh, hót lào lêy tôm pa liêm. ting lêy zâp tô bhúh nắc apêê bhrợ bhiệc bhan ga mắc cắh cậ k’tứi. Ha dang tô bhúh bấc đhi noo bhúh xoọng nắc bhrợ bhiệc bhan ga mắc. ooy bhiệc bhan nắc vêy m’bứi bhlâng 4, 6 cắh cậ 8, 10 tước 12 p’nong a’tứch, lâng acoon a’tứch vêy a’xiu p’riêng, n’coo lêệ k’dzụa. Pr’đươi jập đồ nắc lêy t’moót cóh giọ zêng. Giọ nâu bơơn taanh lâng cram cr’đêê, mưy râu cram r’boọt, chêếh bhrợ r’boọt lâng taanh bhrợ, vêy đhị nắc bhrợ pr’hoọm t’viêng đoọng liêm. xang bêl ra văng liêm xang jập đồ đhanuôr nắc lêy đợc ooy Bung lâng Clếp t’mêê, xang nặc âng đơơng ooy đông n’đil. T’coóh Quàng Văn Chức cóh chr’val Chiềng Cang, chr’hoong Sông Ma đoọng năl: “N’jứih bêl k’noọ bơơn k’điêl nắc lêy ra văng 2 bung, clếp đoọng đợc pr’đươi pr’dua, taanh bhrợ giọ đoọng lêy t’moót đợc a’xiu, cr’liêng a’tứch lâng n’coo a’xiu. Ting lêy ooy zâp tô bhúh, pa đhang moon cơnh tô bhúh Cầm nắc lêy bhrợ bhiệc bhan ga mắc k’dâng 12 bhiệc, nắc pa zêng 12 n’coo lêệ k’dzụa, ha dợ zâp tô bhúh Quang, Lò nắc bhrợ 8 bhiệc. đông n’đil xay moon pr’đơợ bhrợ 8 bhiệc nắc vêy 8 n’coolêệ k’dzụa lâng zâp pr’đươi âng đơơng lâng pazao đoọng bhrợ hun pr’hêl ha đhi noo tô bhúh đắh đông n’đil.”
Đh’rứah lâng jập đồ, đông n’jứih âng đơơng đông n’đil bhrợ bhiệc bhan xay xơ nắc vêy mưy p’nong a’ọc mơ 10 ký, 100 ký cha nêếh, 60 lít búah... đông n’đil nắc k’đươi đhi noo, bhúh xoọng, vel bhươl lướt pấh hơnh déh diịc điêl têêm ngăn, mamung k’rơ. Bêl k’noọ chô đông k’diịc, n’đil nắc ra văng hun pr’hêl đoọng ha đông n’jứih cơnh đhr’nuum bhr’lệp đoọng ha k’căn k’conh k’diịc, khăn piêu, tr’ơớih đoọng ha ngắh, a’dêy đắh đông n’jứih... Tu cơnh đêếc, apêê pân đil Thái tơợ bêl 12, 13 c’moo nắc ơy bơơn zâp apêê a’mế a’moóh pa choom đoọng taanh íh bhrợ khăn, bhai. Xang bêl bhrợ têng xay xơ nâu đắh đông n’đil, 2 anhi n’đil n’jứih nâu nắc váih diịc điêl bhlâng. Ting cơnh j’niêng cr’bưn bêl lang ahay, k’coon n’jứih nắc ặt cóh đông n’đil 1 cắh cậ 2 c’moo tước bêl choom mặ glúh ặt lalay. Hân đhơ cơnh đêếc, xoọc đâu manứih Thái cắh dzợ đoọng k’diịc chô ặt cóh đông k’điêl, xang bêl bhrợ bhiệc bhan nắc đơơng chô luôn n’đil cắh cậ 10 t’ngay t’tưn nắc vêy đơơng chô. T’coóh Lù Văn Hặc đoọng năl cớ: “Xang bêl xay xơ cóh đông n’đil, tước t’ngay đông n’jứih bhrợ têng hơnh déh ma mai chô, đắh đông n’đil pazao đoọng k’coon ooy đông n’jứih. Tơợ t’ngay n’nắc, n’đil nâu nắc váih manứih cóh đông n’jứih, pay tô đắh n’jứih lâng nắc vêy trách nhiệm lâng pr’loọng đông n’jứih lâng apêê n’jứih nắc cung vêy trách nhiệm lâng n’đil nâu.”
J’niêng cr’bưn xay xơ, zước nhăn âng đhanuôr Thái xoọc đâu bơơn bhrợ liêm buôn lấh, doọ dzợ zr’nắh zâp cơnh l’lăm. Đợ j’niêng cr’bưn cắh dzợ liêm crêê lâng prắt tr’mung nắc lêy lơi jợ, hân đhơ cơnh đêếc, cung dzợ bơơn zư đợc đợ râu chr’nắpbhlâng âng j’niêng cr’bưn nâu lâng zư đợc tơợ lang nâu tước lang n’tốh. Đhanuôr moon n’đil n’niên váih bơơn k’căn k’conh băn par, dưr ga mặc liêm lướt bơơn k’diịc váih manứih cóh đông k’diịc, k’diịc vêy trách nhiệm lâng pr’loọng đông k’điêl đoọng lêy bhrợ pa chô c’rơ g’lêếh băn zư, p’too pa choom k’coon âng apêê. Tu cơnh đêếc, bêl k’căn k’conh n’đil lướt lưm lêy xa xao, k’coon n’đil ta luôn bơơn ta chắp lêy tớt đhị chr’nắp lâng đợc đhị mặt 2 p’ngan búah yêm, j’niêng cr’bưn nâu ơy váih tơợ ahay dzợ zư đợc tước đâu. Nâu đoo nắc văn hoá váih lalay, lâng liêm chr’nắp ặt pazưm liêm ta níh âng 2 đắh pr’loọng đông, chắp hơnh đh’rứah, đh’rứah bhrợ pa dưr đoọng ha k’coon cha châu vêy pr’ắt tr’mung liêm ta níh, têêm ngăn, k’bhộ k’van./.
Nét riêng trong tục cưới xin của người Thái đen Tây Bắc
Lường Hạnh
Đồng bào dân tộc Thái đen Tây Bắc quan niệm: con cái lớn lên xây dựng gia đình, dựng vợ gả chồng là việc hệ trọng của đời người. Vì vậy, các thủ tục, đồ lễ trong cưới xin rất kỹ lưỡng, kỳ công và có nhiều nét rất riêng chỉ có ở đồng bào Thái.
Sau khi người con trai Thái đen đã tìm hiểu kỹ càng người con gái mình yêu và được gia đình nhà gái nhất trí, nhà trai sẽ cho bà mối đến dạm hỏi. Bà mối (thường là người có uy tín, vợ chồng tâm đầu ý hợp, am hiểu về phong tục tập quán) mang trầu cau, kẹo bánh, 2 nải chuối, 2 bó mía đến đánh tiếng với nhà gái. Sau đó chọn ngày lành, tháng tốt, 2 bên gia đình cử đại điện đến gặp mặt trao đổi về việc hôn lễ cho đôi bạn trẻ gọi là (Vay trai ) do nhà trai đứng ra tổ chức. Ông Lù Văn Hặc ở bản Bó, Phường Chiềng an, thanh phố Sơn La cho biết: “Về việc cưới xin của người Thái, nhà gái ra điều kiện cho nhà trai sẽ làm bao nhiêu thì nhà trai chuẩn bị. Ví dụ nhà trai làm 8 lễ thì sẽ có 8 con gà kèm theo các gói muối, gói gừng, thuốc lào và các giọ cá giảng, ống thịt chua đủ bộ đi kèm.”
Nhà trai cũng sẽ nhờ mai mối đại diện hỏi ý kiến nhà gái về các điều kiện cho việc cưới xin. Như đồ lễ, nhà trai phải chuẩn bị châm cài búi tóc, 2 nắm tóc độn, đôi tòng teng, nhẫn, đôi vòng bạc cho cô dâu, 1 đôi cho mẹ vợ. Ngoài đồ tư trang, còn có gói trầu cau, gừng, muối, thuốc lào được gói cẩn thận buộc lạt đôi. Tùy theo từng dòng họ mà làm lễ to hay nhỏ. Nếu dòng họ đông anh em họ hàng thì sẽ cho làm lễ to. Trong lễ sẽ có ít nhất 4, 6 hoặc 8, 10 cho đến 12 con gà, kèm với con gà có cá sấy khô, ống thịt chua. Đồ lễ được cho vào giọ. Giọ này được đan bằng cây tre (mạy bồng) một loại tre rất dẻo, chẻ thành lạt mềm và đan thành giọ, có nơi còn nhuộm lạt xanh đỏ cho đẹp. Sau khi chuẩn bị xong đồ lễ bà con sắp vào cái bung và clếp (đồ dùng đan bằng tre của người Thái) mới, rồi mang sang bên nhà gái. Ông Quàng Văn Chức ở xã Chiềng Cang huyện Sông Mã cho biết:“Người con trai trước khi đi cưới vợ phải chuẩn bị đôi bung, cái clếp để đựng đồ lễ, đan giọ để cho cá giảng, trứng và ống thịt chua. Tuỳ theo từng dòng họ, ví như họ Cầm hoặc dòng họ lớn thường làm lế to khoảng 12 lễ ( tức là 12 ống thịt chua), còn các họ Quàng, họ Lò thì làm 8 lễ. Nhà gái ra điều kiện làm 8 lễ thì sẽ có 8 ống thịt chua và các đồ lễ đi kèm và được giao làm quà cho anh em họ hàng bên nhà gái.
Cùng với đồ sính lễ, nhà trai mang đến nhà gái làm lễ cưới một con lợn khoảng 100 kg, 100 cân gạo nếp, 60 lít rượu ...Nhà gái sẽ mời anh em, họ hàng, bản trên mường dưới đến mừng hạnh phúc cho đôi vợ chồng trẻ. Trước khi về nhà chồng, cô dâu chuẩn bị quà tặng cho gia đình chồng như chăn đệm cho bố mẹ chồng, khăn piêu, gối cho cô, dì, chú bác bên chồng...Vì thế, chị em phụ nữ Thái từ tuổi 12, 13 đã được các mẹ, các chị truyền dạy cho cách thêu khăn, dệt vải. Sau khi tổ chức cưới xong bên nhà gái, đôi bạn trẻ thành vợ chồng. Theo tục lệ ngày xưa người con trai sẽ ở rể bên nhà vợ 1 năm hoặc 2 năm đến khi có thể ra ở riêng sống tự lập. Nhưng phổ biến hiện nay là người Thái không còn ở rể, cưới xong có thể đón dâu ngay hoặc khoảng 10 ngày sau mới đón. Ông Lù Văn Hặc cho biết thêm: “Cưới xong bên nhà gái, đến ngày nhà trai tổ chức đón dâu, nhà gái bàn giao con gái cho bên nhà trai. Từ ngày đó trở đi cô dâu trở thành người bên nhà chồng, nhập họ nhà chồng và có trách nhiệm với gia đình bên nhà chồng và ngược lại họ nhà trai cũng phải có trách nhiệm với cô dâu.”
Tục cưới xin của đồng bào Thái ngày nay được đơn giản hoá, không còn cầu kỳ như trước. Những tập tục không còn phù hợp với cuộc sống mới dần dần được bà con xoá bỏ, nhưng vẫn giữ được những bước cốt lõi nhất của tục này và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bà con cho rằng con gái sinh ra được cha mẹ nuôi nấng, lớn khôn đi lấy chồng thành người của nhà chồng, chàng rể phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với gia đình vợ để đền đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Nên khi bố mẹ vợ đến thăm con rể, con gái luôn được tôn trọng ngồi mâm trên và đặt trước mặt 2 chén rượu ngon, tục lệ này có từ xa xưa vẫn còn lưu giữ đến ngày nay. Đây vừa là nét văn hoá riêng có, vừa mang ý nghĩa nhân văn kết nối thông gia, tôn trọng lẫn nhau, cùng vun vén cho con cháu cuộc sống văn minh, gia đình hạnh phúc./.
Viết bình luận