Trong ngôi nhà riêng của gia đình nghệ nhân Tạ Thu Hương (sinh năm 1968), chúng tôi không khỏi bất ngờ khi được tận mắt chứng kiến những người thợ làm nón làng Chuông đang cần mẫn, chăm chú từng đường kim, mũi chỉ trên những chiếc nón lá phủ lụa với nhiều màu sắc sặc sỡ với nhiều kích cỡ khác nhau….
Chị Phạm Thị Huyên, 38 tuổi, người làng Chuông, làm nón từ năm 7 tuổi nhưng đến năm 19 tuổi, chị mới có thể làm hoàn chỉnh một chiếc nón từ công đoạn đơn giản đến phức tạp. Chị Phạm Thị Huyên cho biết, Để làm ra một chiếc nón trải qua rất nhiều công đoạn. Từ lá xanh, vò đem phơi khô, rồi phải dẽ lá, sau đó đem là cho phẳng ra. Từ lúc bứt vòng, thắt vòng, quai lá, quai mo, phủ lụa…phải mất ít nhất 5 tiếng để hoàn thiện một chiếc nón.
Có lẽ độc đáo nhất trong số những sản phẩm nón Chuông là nón lụa Hà Đông. Dựa trên quy trình làm nón truyền thống, bên trong chiếc nón vẫn dùng lá và mo nhưng bên ngoài thì thay lá bằng lụa Hà Đông nhiều màu sắc, kết hợp giữa nón lá truyền thống và vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng của lụa. Nghề làm nón truyền thống lâu đời như ngấm vào máu người làng Chuông nên họ bắt nhịp rất nhanh khi chuyển sang làm những chiếc nón độc đáo do chị Tạ Thu Hương sáng tạo nên.
Chị Phạm Thị Mai, một người thợ làm nón làng Chuông chia sẻ, từ đời bố mẹ đến đời các con, các cháu đều biết làm nón cả, làm nón là có tiền. Ngoài đồng ruộng ra, những người không đi làm thì ở nhà khâu nón. Để xuất khẩu được ra nước ngoài thì các mẫu mã lúc nào cũng phải cải tiến, đẹp mắt. Chẳng hạn trước đây chỉ làm nón trơn nhưng nhưng bây giờ làm nón lụa, nón vẽ, nón thêu, rất nhiều mẫu mã. Khách đặt mẫu nón nào, người làng Chuông cũng làm được.
Gần 50 năm gắn bó với nghề, chị Tạ Thu Hương được coi là một trong những nghệ nhân của làng Chuông đang gìn giữ nghề truyền thống. Kỳ công là vậy, nhưng những chiếc nón làng Chuông đẹp nhất cũng chỉ bán được 100.000 đồng/chiếc, còn lại bình quân 50.000-70.000 đồng/chiếc.
Chia sẻ về cái duyên với nghề, chị cho biết, ngày nhỏ, chứng kiến cảnh người dân làng tôi đội nón đi bán rồi đội nón về. Mọi người nói với nhau rằng “hôm nay không có tiền đong gạo”, mình thấy nỗi khổ của người dân làng mình. Sau khi học hết cấp 3, tôi đem những chiếc nón làng Chuông đến các công ty xuất nhập khẩu, giới thiệu, gửi mẫu mã và nói với họ, nếu có đơn hàng thì trả cho tôi làm, tôi đầu tư mẫu mã. Từ yêu nghề, thương dân và cũng là tự cứu lấy chính mình. Ban đầu rất gian nan, vất vả nhưng rồi tôi cũng ký được đơn hàng đầu tiên với công ty xuất nhập khẩu ở Hưng Yên.
Nhận thấy nhu cầu đa dạng của khách hàng, nghệ nhân Tạ Thu Hương đã sáng tạo ra nhiều mẫu nón lá độc đáo, chứa đựng trong đó tình yêu quê hương đất nước. Chính vì thế, chiếc nón của chị không chỉ để sử dụng trong đời sống sinh hoạt thường ngày, mà trở thành một tác phẩm nghệ thuật độc đáo với những bức tranh, họa tiết được vẽ lên một cách tỉ mỉ, cẩn thận đến từng chi tiết.
Chị đã làm được những đơn hàng xuất khẩu, không chỉ là nón truyền thống mà là nón cải tiến, mỗi nước một kiểu. Một cặp vợ chồng người Ô-xtrây-lia về làng Chuông đặt hàng, nhưng họ đặt làm các kích cỡ to nhỏ với mô hình nhiều màu. Mình cũng nhận làm và đã làm được đúng như yêu cầu của khách. Sau đó đem bán cho dân, được người dân yêu quý và chị đã quyết định lập nghiệp bằng nghề này.
Trăn trở với nghề, chị Tạ Thu Hương luôn cố gắng tạo thêm những sản phẩm độc đáo, thu hút khách du lịch đến với làng nghề để từ đó, tăng thu nhập cho gia đình và người dân làng nghề. Nghĩ là làm, chị Hương đã thử làm những chiếc nón chùm, nón xòe, nón lâm xung, nón thêu phong cảnh Việt Nam vô cùng độc đáo.
Từ làng Chuông, những chiếc nón lá mang tâm hồn Việt đã theo du khách đi khắp nơi trên thế giới. Trung bình mỗi năm, cơ sở sản xuất của nghệ nhân Tạ Thu Hương xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Âu 20.000-30.000 chiếc nón. Hoạt động này không chỉ mang về nguồn thu nhập cao cho gia đình, mà còn tạo việc làm cho hơn 20 lao động thường xuyên tại xưởng nhà chị Hương, cùng các hộ sản xuất lân cận với mức thu nhập trung bình từ 2-5 triệu đồng/người/tháng.
Hiện tại, nón lá trên lụa rất thịnh hành. Thời đại 4.0 nên nón làng Chuông luôn đảm bảo tiêu chí đẹp. Chị em trên mọi miền đất nước đều ưa thích và chị Hương bán được rất nhiều. Bà con trong làng bây giờ nhiều người biết làm nón lụa, có việc và thu nhập ổn định hơn so với làm nón trơn truyền thống.
Khi cuộc sống hiện đại đang làm mất dần đi những làng nghề truyền thống thì việc những nghệ nhân làng nghề tâm huyết như chị Tạ Thu Hương đang góp phần lưu giữ giá trị, bản sắc văn hóa và biểu tượng truyền thống của làng nghề. Cùng với tình yêu, nhiệt huyết với những chiếc nón lá truyền thống của dân tộc, chị Hương được nhiều người coi là “Đại sứ nón”. Nghệ nhân Tạ Thu Hương mong muốn “truyền lửa đam mê” này đến cho đông đảo mọi người trong xã hội./.
Viết bình luận